Selected
extracts fromTƯ TƯỞNG No.1, published MARCH 1999:
|
Tác giả: CUNGÐÌNH THANH
|
Ðề Tài: TIẾNGCHIM GỌI ÐÀN
-THƯNGỎ 1
|
TIẾNG
CHIM GỌI ÐÀN
THƯ
NGỎ 1
----
Xin được gửi đến Qúi vị độc giả và Bằng hữu bốn phương. ------
Kính thưa Quí vị,
Các bạn rất thân mến,
Gần đây, người viết rất
vui mừng khi thấy trên báo chí, trên truyền thanh, truyền hình, trong những văn
kiện của các đoàn thể, đã có nhiều người để ý đến vai trò của văn hóa trong
công việc đánh đổ độc tài, xây dựng dân chủ đặng giải phóng tư tưởng để toàn
dân được phát huy trí tuệ, cùng góp sức, góp phần, xây dựng quê hương. Ðúng vậy,
nếu chính trị là đội quân tiền phong, là mũi dùi đột phá thành trì của độc tài,
thì văn hóa, mà cốt lại của văn hóa là tư tưởng, là đội quân chủ lực. Là đầu
não chỉ huy để hướng dẫn chính trị và nhất là, để tái thiết quốc gia một khi độc
tài không còn nữa. Hãy tưởng tượng một ngày nào đó, mà ngày ấy chắc cũng không
xa, khi cộng sản độc tài đã dứt thì chúng ta, những nhà lãnh đạo, những bậc thức
giả và toàn dân phải làm việc, phải tư duy theo đường hướng nào để đưa đất nước
tiến lên ngang tầm thời đại? Chúng ta phải tư duy theo lối cộng sản như các
sách viết theo lý luận Mác-xít của các tác giả theo cộng sản đã để lại trên quê
hương chúng ta sao? Và như thế thì chúng ta phải mất công đánh đổ chế độ cộng sản
làm gì? Hay quay lại theo các sách của các tác giả đã viết từ thời thực dân để
lại? Quay lại lối làm việc, lối suy nghĩ như thời quốc gia? Và như thế thì
"cũng như không" theo nhận định của đa số thức giả ngày nay. Hơn nữa,
những sách cũng cổ quá rồi, nhiều sách đã được khảo cổ học và các khoa học mới
chứng minh là không còn đúng nữa. Vậy tư duy theo cái gì? Tư duy theo lối thực
dụng và theo các triết lý hỗn tạp của những nước tạm dung chăng? Và như thế thì
sự chia rẽ vốn đã là một bệnh trầm kha trong cộng đồng người Việt sẽ trở nên khủng
khiếp biết là chừng nào?! Tương lai thực sự đen tối dù chúng ta đã phá bỏ được
độc tài cộng sản nếu chúng ta không kịp có những tài liệu về văn hóa, chủ yếu
là về tư tưởng để bù vào lỗ hổng khiếp đảm kia. đó là mục đích mà hôm nay người
viết mạo muội viết bức thư này gửi đến Quí vị. Từ lâu, người viết có ý muốn soạn
một quyển tư tưởng sử Việt Nam.
Nhưng khi tìm đến tài liệu thì thấy hãy còn quá nhiều khoảng trắng. Trong hoàn cảnh
như vậy, viết tư tưởng sử dường như còn sớm vì không thể không dùng đến những
suy đoán không có bằng chứng khoa học. Do đó, những trang sách cứ còn nằm mãi
trong đầu!
Nhưng đến nay thì
không thể chờ đợi được nữa! đã đến lúc chúng ta phải cùng nhau ngồi lại viết một
bộ SƠ LƯỢC LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM. Người viết xin được mạn phép
đưa ra một gợi ý, rất mong được Quí vị hồi âm chỉ dạy. Bộ sử đó nên chia làm 18
quyển theo trình tự như sau :
·
·
quyển thứ nhất - Quyển này viết về tư tưởng người Việt cổ thời tiền sử,
thời chưa có chữ viết. Căn cứ vào đâu để có thể viết về tư tưởng hay đúng hơn,
về tư duy của những người đã sống cách chúng ta hàng nhiều ngàn năm đến nhiều
chục ngàn năm? Cái xương sống của việc tìm hiểu tư duy này phải dựa vào khoa khảo
cổ, và những công cụ tại các di chỉ khảo cổ tìm được mà nhờ những tiến bộ khoa
học ngày nay, nhất là khoa phóng xạ carbon C14, người ta có thể đọc biết những
tín hiệu tiền nhân muốn gửi gấm lại cho con cháu, bọn hậu bối chúng ta. Tuy
nhiên chỉ bằng vào khảo cổ cũng không đủ. Dùng khảo cổ tìm về sự thực ngày xưa
cũng như dùng phương pháp phân loại máu để tìm về phụ hệ. Nếu loại máu của anh
A có thể phủ nhận anh không phải là con của ông B, thì ngược lại, cũng không thể
khẳng định đích thực ông B là cha của anh A. Khảo cổ cũng vậy : Khảo cổ có thể
phủ định một sự thực trong quá khứ không đúng như người ta đã quan niệm; nhưng
nếu muốn khẳng định đâu là sự thực thì phải cầu viện nhiều khoa học khác nữa bổ
túc cho khảo cổ. đó là nhiệm vụ của các khoa khảo cổ sử học, khoa cổ nhân chủng
học, ngôn ngữ học, dân tộc học, xã hội học, văn học dân gian . . .Bao gồm trong
quyển một này, ngoài sự hình thành và những biến chuyển trong tư duy người Việt
thời Thái cổ, chúng ta cũng cần tìm hiểu về tiếng nói và chữ viết cổ của người
Việt có giống hay khác thứ chữ sau này tổ tiên chúng ta đã dùng trong nhiều thế
kỷ mà chúng ta gọi là chữ Nho, về việc thành lập nhà nước Văn Lang, về một
trong những thời kỳ cổ của Trung Hoa là thời Xuân Thu Chiến Quốc mà người viết
cho rằng có ảnh hưởng khá lớn đến việc tranh dành địa bàn ngày nay là nước
Trung Hoa giữa tộc Hoa với tộc Việt. Việc thua phải rút lui hay chịu sự đồng
hóa của tộc Bách Việt trước tộc Hoa, sự thua, đồng hóa và rút lui của các thủ
lãnh từ miền bắc xuống miền nam tập trung ở lưu vực sông Hồng là một yếu tố
quan trọng cho việc thành lập nước Văn Lang. Có một số câu hỏi mà bấy nay vẫn
làm nhức nhối những nhà nghiên cứu lịch sử, thí dụ như câu hỏi tại sao đại tộc
Bách Việt có một nền văn hóa rực rợ và tiến bộ vào bậc nhất nhân loại hồi ấy mà
lại có thể bị thua và phải nhường phần đất mầu mợ nhất là phía nam sông Hoàng
Hà và lưu vực sông Dương Tử cho người Hán? Tại sao cũng cùng là tộc Bách Việt
mà những nước ở phía nam sông Hoàng từ nuớc Sở, nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn
cho đến những nước điền, nước Dạ Lang, nước Thục rồi đông Việt, Mân Việt, Nam
Việt, vùng Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng đông, Quảng Tây, rồi Nam Chiếu tức nước
đại Lý sau này, toàn là những nước đã từng có một nền văn hóa khá cao mà lại bị
đồng hóa dễ dàng bởi người Hán trong khi người Âu, Lạc Việt sau khi cũng đã bị
mất và bị người Hán đô hộ cả ngàn năm lại có thể lấy lại được tự chủ, được độc
lập, trong khi những nước kia bị đồng hóa luôn. Tại sao Thục dưới thời An Dương
Vương xâm chiếm đất Văn Lang của Vua Hùng lại được dân coi như là anh hùng dân
tộc và được thờ trong khi đó Triệu là vua nước Nam Việt, một ngành của Bách Việt
khi xâm chiếm Âu Lạc lại bị coi như ngoại xâm. Lại nữa, những người thuộc đại tộc
Bách Việt bây giờ ở đâu? Họ có đúng là còn lại ở Trung Hoa và còn chiếm một tỷ
lệ cao bảy tám mươi phần trăm như nhiều nhà nghiên cứu đã nói không? Tất cả những
vấn đề đó sẽ được nhìn không phải chỉ dưới khía cạnh lịch sử mà điểm chính là từ
khiá cạnh đó sẽ cố gắng tìm ra cốt lại tư tưởng người Việt trước khi thu nhập
các tư tưởng bên ngoài như Nho, Phật, Lão.
·
·
quyển thứ hai - Quyển này viết về tư tưởng bình dân. Tư tưởng chính của
người Việt thời cổ không phải ở trong các tác phẩm chữ viết mà chính ở trong
văn chương truyền khẩu gồm có tục ngữ, ca dao, truyện nôm, truyền thuyết, truyện
cổ tích ... Trong những tư tưởng bình dân có những tư tưởng có trước thời kỳ Bắc
thuộc, trước khi thâu hóa những tư tưởng ngoại lai, cũng có những tư tưởng có
trong hay sau thời kỳ Bắc thuộc. đấy là những tư tưởng đã hay đang thâu hóa những
tư tưởng ngoại lai. Việc phân biệt đâu là tư tưởng cốt lại trước khi thâu hóa
tư tưởng ngoại lai và đâu là những tư tưởng bị ảnh hưởng tư tưởng ngoại lai
không phải là việc đơn giản. Việc phân biệt bao nhiêu phần trăm tư tưởng bình
dân là do cốt lại tư tưởng dân tộc, bao nhiêu phần trăm chịu ảnh hưởng từ các
tư tưởng ngoại lai, nói khác, mức độ nặng nhẹ của ảnh hưởng những tư tưởng ngoại
lai trên tư tưởng cốt lại dân tộc trong văn chương bình dân còn khó hơn nữa.
Tuy nhiên không ai phủ nhận ảnh hưởng tư tưởng bình dân trong đời sống dân tộc
Việt Nam.
Và không ai không đánh giá cao việc bảo tồn văn hóa dân tộc dựa vào tư tưởng
bình dân. điều đó là rạ rệt. Bởi vậy sự quan trọng của tư tưởng bình dân đối với
đời sống của người Việt, nhất là đời sống của người Việt ở nông thôn chiếm đại
đa số dân tộc Việt, cũng như sự quan trọng của tư tưởng bình dân trong việc giữ
gìn văn hóa Việt Nam nói chung là điều quan trọng. đó là lý do tư tưởng bình
dân đuợc trình bày trong quyển thứ nhì. Quyển này sẽ chia ra : phần thứ nhất
nói về Trời, phần thứ nhì nói về đất và phần thứ ba nói về Người. Về Trời nói
chung sẽ có ba chương, chương thứ nhất nói về những tín ngượng đầu tiên của người
Việt cổ. Ngoài Trời sẽ nói về những tín ngượng thiên nhiên khác như về thần, sấm
chớp, thần gió, thần mưa, nghĩa là những thần tượng trưng cho những thế lực
thiên nhiên, nhất là những thế lực thiên nhiên ảnh hưởng đến đời sống nông nghiệp
vốn là căn bản của văn minh người Việt cổ. Sau khi nói về tư tưởng cổ, ta sẽ nói
về tư tưởng Tam Giáo trong ca dao. Trong phần tư tưởng thiên nhiên sẽ nhấn mạnh
về đạo như đạo hai "có đi có lại mới toại lòng nhau". Từ đó có thể
suy luận rằng triết lý Việt cổ rất gần với Kinh Dịch và đặt vấn đề phải chăng
Kinh Dịch là sản phẩm của người Bách Việt? đến phần thứ hai nói về đất, chia ra
làm ba chương. Chương bốn nói về tình yêu quê hương, làng xóm, yêu danh lam thắng
cảnh. Chương năm nói về yêu những anh hùng dựng nước, giữ nước, có công với đất
nước về mọi mặt. Chương sáu nói về lòng nhớ quê của người Việt cùng những kỷ niệm
về quê hương cũ. Phần quan trọng nhất là về Người. Chương bảy sẽ nói về tình
yêu trong gia đình. Chương tám sẽ nói về tình yêu trong xã hội. Chương chín sẽ
nói về bách nhân, bách nghệ. Chương mười đặc biệt cho tình yêu trai gái, sẽ
phân ra làm ba trường hợp khác nhau.
·
·
quyển thứ ba - Quyển này sẽ nói về tư tưởng Việt Nam thâu hóa được trong thời kỳ Bắc thuộc, gồm
có ba phần chính : phần Nho, phần đạo hay Lão và phần Phật. Mỗi phần lại chia
ra làm nhiều chương tùy theo từng thời kỳ thâu hóa trong lịch sử Việt Nam.
Trong quyển này cũng gồm có bốn chương chính. Chương thứ nhất nói về ảnh hưởng
của Phật Giáo từ khi mới du nhập vào Việt Nam cho đến hết thời Bắc thuộc và những
dư âm của nó sẽ còn quan trọng như thế nào trong những thời kỳ kế tiếp. Chương
thứ hai sẽ nói về ảnh hưởng sự du nhập của đạo học nói chung vào Việt Nam và
vai trò của nó trong đời sống dân tộc. Chương thứ ba sẽ nói về sự du nhập cũng
như ảnh hưởng của Nho Giáo trong thời Bắc thuộc qua từng giai đoạn một. Chương
thứ tư sẽ nói về sự hòa đồng ba tư tưởng Phật, Lão, Nho với tư tưởng cổ truyền
của dân tộc.
·
·
quyển thứ bốn - Sự thâu hóa những tư tưởng trên hòa nhập với cốt lại của
tư tưởng Việt Nam vốn có những nét vô cùng độc đáo, sẽ đi đến những tư tưởng đặc
thù của nhà nước tư chủ Việt Nam thuộc thời kỳ đại Việt gồm từ đinh, Lê, Lý đến
Trần, Hồ. đây quả là một thời kỳ quan trọng nhất trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam cũng là thời kỳ cần được nghiên cứu kỹ càng nhất vì có thể là tài liệu có
công dụng lớn nhất trong việc phục hưng văn hóa dân tộc. Nghiên cứu thời kỳ này
chúng ta sẽ thấy Việt Nam có những sáng tạo lớn chứ không phải tư tưởng Việt
Nam chỉ là Tam Giáo dù đó là Tam Giáo đồng nguyên hay Tam Giáo đồng lưu.
·
·
quyển thứ năm - đối tượng của quyển thứ năm là tư tưởng Việt Nam từ
thời Lê sau cái chết của Nguyễn Trãi cho đến khi Quốc gia bị chia ra làm ba phần
: Mạc, Trịnh, Nguyễn. Thời Lê mà lịch sử cũng như văn học sử vẫn thường coi là
một thời kỳ rực rợ, phát triển cao độ của nền phong kiến Việt Nam. Dưới ánh
sáng của những phát minh mới về khảo cổ cũng như về dân tộc học, người viết
nhìn thấy rằng thực sự về phương diện tư tưởng đây bắt đầu một thời kỳ suy
thoái. Thời kỳ mà người Việt đã bắt đầu đi sai định hướng cố hữu của tộc Việt.
đành rằng đầu thời Lê chúng ta sẽ thấy có những công trình về văn học, về luật
học, tôi muốn nói đến bộ luật Hồng đức rất là rực rợ. Nhưng đó chẳng qua chỉ là
tia hồi quang của nền văn hóa đã tiến đến cao độ thời Lý, Trần và thời Hồ. Người
xây dựng, kiến trúc sư chính của những công trình này là Nguyễn Trãi, một người
đã sinh ra, đã lớn lên, đã thâu thái được cái cốt tủy của nền văn minh đại Việt
Lý, Trần. Nhưng cái chết của ông cũng như sự hy sinh của cả ba họ Nguyễn Nhị
Khê cũng đánh dấu sự suy thoái của nền văn minh đại Việt trước sự bành trướng của
văn hóa Trung Hoa. Oái oăm thay! lúc chúng ta chiến thắng về quân sự cũng là
lúc chúng ta bắt đầu thua trên mặt trận văn hóa để cho tinh hoa của dân tộc bị
thương tổn trầm trọng kéo theo sự suy thoái của cả một dân tộc, kết quả đã đưa
đất nước dần đến chỗ bại vong và bị mất nước về tay người Pháp sau này.
·
·
quyển thứ sáu - Quyển này nói về tư tưởng thời kỳ đất nước bị chia hai :
Mạc, Trịnh. đây là một thời kỳ hết sức đặc biệt, không những chỉ đặc biệt đối với
nước ta mà còn là thời kỳ nhân loại trên thế giới bắt đầu thức giấc sau giấc ngủ
dài của thời Trung cổ. Dân Việt cũng cùng tâm trạng với cộng đồng thế giới.
Chính Mạc đăng Dung là người đứng lên làm cuộc cách mạng này : ông đã có cái
nhìn ra biển cả, định hướng dẫn dân Việt tham gia cuộc cách mạng Trọng thương
này. đáng tiếc tư tưởng cấp tiến của ông không được hưởng ứng để cuối cùng hai
họ Trịnh Nguyễn lại kéo dân Việt thụt lùi lại thời Trung cổ. Các sử gia trước
đây có thể vì lý do nào đó đã không nhìn thấy hoặc làm như không nhìn thấy và
thường đánh giá nhà Mạc như một Ngụy triều. Do đó tư tưởng thời này cũng coi
như không có gì đáng kể. đây là khúc quanh quan trọng quyết định vận mệnh của
dân tộc. đã đến lúc chúng ta phải tìm biết sự thực ngọn ngành để trả công đạo về
cho lịch sử và rút bài học cho các thế hệ mai sau.
·
·
quyển thứ bảy - Nhà Mạc dứt, tiếp theo là thời kỳ Nam bắc phân tranh kéo dài gần 200
năm. đứng về phương diện lịch sử cũng như về phương diện tư tưởng sử, đây là thời
kỳ có nhiều mâu thuẫn nhất, vừa có những tiến bộ ngoạn mục, lại vừa có những
thoái trào sâu sắc : - Về lịch sử, lãnh thổ đã mở rộng cương vực về phía Nam
nâng diện tích đất nước lên gần gấp hai lần trước, nhưng đồng thời cũng lâm thời
chia dân Việt ra làm hai quốc gia khác nhau (Hoàng Lê Nhất Thống Chí : đối thoại
giữa Nguyễn Huệ và vua Lê đã dùng danh từ Tệ quốc, Qúy quốc) - Về tư tưởng sử,
đây là lúc đang dần dần tiếp thu hai miền đất mới (Chiêm Thành, Thủy Chân Lạp)
đương nhiên cũng tiếp thu luôn hai nếp sống mới, hai nền văn hóa mới để hòa nhập
với văn hóa Việt. Những nền văn hóa khác biệt này đương nhiên khi hòa đồng với
nhau cũng phải có những va chạm, những trăn trở, cả những xung đột nữa mà không
phải lúc nào cũng êm đềm không sóng gió. Phản ánh những biến chuyển này trong
tư tưởng người dân Việt thời kỳ này ra sao?
·
·
quyển thứ tám - Quyển này dành để nghiên cứu tư tưởng thời Tây Sơn. Nhà
Tây Sơn tuy rất ngắn ngủi (1778 Nguyễn Nhạc xưng đế ở Qui Nhơn, 1802 Gia Long
lên ngôi vua) nhưng lại là một triều đại đặc biệt trong một thời kỳ lịch sử
cũng rất đặc biệt : không chỉ đặc biệt vì thiên tài quân sự của vua Quang Trung
đã tạo được những chiến công quân sự hiển hách vào bậc nhất trong lịch sử - hẳn
đã gây nhiều kiêu hãnh cho người Việt và cũng tạo không ít những kỳ vọng vào
tương lai xứ sở cho mỗi người dân thời đó - mà còn vì thời kỳ này trùng hợp với
thời kỳ trên thế giới có nhiều biến cố trọng đại mở màn cho lịch sử nhân loại
ngày nay: năm 1776 anh em Nguyễn Nhạc chiếm được thành Qui Nhơn khởi đầu triều
đại Tây Sơn. 1776 cũng là năm Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ tuyên bố Hiến pháp độc lập;
năm Adams Smith mở đầu thời kỳ kinh tế tự do, năm James Watt sáng chế máy hơi
nước, khơi nguồn cho cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu và cũng là nguyên nhân
cho kinh tế Tây phương cất cánh. . . Vì sao dân Việt đã lợ chuyến tầu không cất
cánh được như Nhật Bản hay nhân loại phương Tây? Nhiệm vụ quyển tám phải tìm
cho được lời giải thích thỏa đáng vậy.
·
·
quyển thứ chín và thứ mười - Quyển chín và quyển mười đều nói về tư tưởng
thời Nguyễn. Quyển chín bàn đến tư tưởng người Việt khi chưa có sự xâm lấn của
thực dân Pháp. Quyển mười chuyên về tư tưởng đối kháng với sự đe dọa bị mất nuớc
vì một kẻ thù mới không phải là kẻ thù phương Bắc, với những khí giới mới, những
kỹ thuật mới và sự tư duy mới, chúng ta chưa hề gặp trong quá trình lịch sử.
Tài liệu để lại trong thời này đã khá phong phú. Vấn đề chỉ còn là phải suy
nghĩ thế nào để không bị chi phối bởi lối suy luận của những người đã viết ra
và để lại những tài liệu đó, hầu tiếp cận được sư thực bởi những tài liệu này
thường đã bị diễn dịch sai dù về phía người Việt hay người Pháp.
·
·
quyển thứ mười một và mười hai - Quyển thứ mười một và mười hai nói về
tư tưởng Việt Nam
thời kỳ thâu hóa thứ nhì, khi bắt đầu tiếp xúc với Tây phương cho đến năm 1945.
đây là một thời kỳ phức tạp. Ngoài văn chương Hán Nôm, chúng ta bắt đầu có văn
chương chữ Quốc ngữ. Ngoài những tư tưởng cổ đông phương, chúng ta bắt đầu tiếp
xúc với những tư tưởng Tây phương. Nhìn về một khía cạnh có thể ta thấy như Tản
đà :
Than ôi! văn minh
đông Á trời thâu sạch,
Này lúc cương thường
đảo ngược ru?
Nhưng ở một khía cạnh
khác, quả Việt Nam đã thâu hóa được những nền văn hóa lớn nhất của Tây phương
và đã trải qua thời kỳ cực kỳ khó khăn nhưng cũng cực kỳ vinh hiển mà ảnh hưởng
hãy còn sâu đậm cho đến ngày nay.
Tư tưởng thời kỳ Pháp
thuộc nhưng Pháp chưa bình định được đất nước ta được trình bày trong quyển mười
một trong khi quyển mười hai dành để nói về thời kỳ thứ hai, cuộc bình định đã
tạm yên và việc chống đối Pháp đã chuyển sang một khía cạnh khác.
·
·
quyển thứ mười ba và mười bốn Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với văn hóa
Tây phưong bao gồm cả sự tiếp xúc với nền tư tưởng cực đoan nhất của Tây phương
là tư tưởng Mác-xít và đã đưa đến thảm cảnh nồi da sáo thịt trong suốt hơn ba
chục năm. Tư tưởng hoàn toàn xáo trộn, xung khắc mãnh liệt và để lại những hậu
quả vô cùng lớn lao, những vết hằn vô cùng sâu đậm trong tâm trí của mỗi người
Việt. Quyển mười ba và mười bốn khởi đầu từ năm 1945, năm Việt Minh cướp chính
quyền cho đến năm 1954, khi đất nước chia đôi. Quyền mười ba nói về tư tưởng
phát triển ở vùng quốc gia, không bị chính quyền Cộng sản khống chế, nhưng thường
chịu ảnh hưởng của ngoại bang vì là vùng do Pháp tạm chiếm. Quyển mười bốn viết
về tư tưởng ở vùng do chính quyền Việt Minh kiểm soát càng ngày càng lộ mặt
theo chế độ Cộng sản nên tư tưởng cũng là tư tưởng dần dần chịu ảnh hưởng của
chủ nghĩa Mác-xít.
·
·
quyển mười lăm và mười sáu Thời kỳ từ năm 1954, khi đất nước bị chia đôi
đến năm 1975 khi miền Nam bị miền Bắc cượng chiếm cũng được chia làm hai quyển
: quyển mười lăm viết về tư tưởng phát triển ở miền Bắc Việt Nam dưới chế độ Cộng
Sản và quyển mười sáu về tư tưởng phát triển ở miền Nam Việt Nam sống dưới ảnh
hưởng của tư bản rạ hơn là của Mỹ đã thay thế Pháp giúp người quốc gia chống với
khối Cộng Sản.
·
·
quyển mười bảy và mười tám Thời kỳ từ 1975 đến nay sẽ được nghiên cứu và
trình bày trong hai quyển mười bảy và mười tám : 30/4/1975 là ngày mà miền Bắc
với sự lãnh đạo của khối Cộng Sản đã chiếm được miền Nam và đã đặt toàn cại Việt
Nam dưới sự chi phối của khối Cộng Sản. Một số khá lớn những người Việt, chính
yếu là ở miền Nam nhưng rồi sau có cả những người miền Bắc đã bỏ nước ra đi tìm
tự do, sống ở khắp mọi phương trời trên hành tinh này. Họ đến đâu cũng cố gắng
làm báo, viết sách và phát huy tư tuởng Việt Nam ở đó. Do đó, quyển muời bảy viết
về những tư tưởng Việt Nam phát triển ở trong nước và quyển mười tám là tư tưởng
Việt Nam của những người vong quốc sống khắp mọi nơi trên trái đất mà bốn trung
tâm lớn là ở Bắc Mỹ, Âu Châu, Gia Nã đại và Úc Châu.
Mười tám quyển sách
trên tuyệt đối không có mục đích công kích hay khen chê một tập thể nào, hay một
cá nhân nào, cũng không có mục đích chỉ đề cao chủng tộc của mình mà hạ thấp chủng
tộc khác. Vả lại công việc đó trước kia có thể còn có chút ý nghĩa thì ngày nay
không còn là điều quan trọng nữa bởi nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới mà sự
phân biệt quốc gia càng ngày càng ít được quan tâm.
Trái đất càng ngày
càng chứng tỏ là căn nhà chung của nhân loại mà sự sống chết của tộc này với tộc
khác, của vùng này hay vùng kia rồi sẽ liên hệ càng ngày càng chặt chẽ với
nhau. Cũng đã đến lúc mà không còn một quốc gia này có thể thôn tính quốc gia
khác, hiểu theo nghĩa thôn tính về quân sự. Mục đích của những tập sách này,
trước hết để giúp cho những con em người Việt, dù ở trong nước, dù đã phải bỏ
nước ra đi sống ở khắp mọi phương trời biết được nguồn gốc của mình, biết được
mình là ai hầu có thể sống trong một xã hội chung, đa văn hóa, xã hội của loài
người, góp phần trong việc xây dựng tư tưởng chung cho loài người hầu có thể sống
êm thắm và có thể cùng tồn tại trên trái đất. Tuyệt đối không phải là tìm ra một
cái gì riêng rẽ để mà ganh đua để mà ghen ghét với người khác và cũng không phải
để mà tự hào về dĩ vãng huy hoàng nào đó nếu hiểu theo sự tự hào là tự cao tự đại.
Như trên đã nói, người viết hiểu rất rạ rằng, trong hoàn cảnh tài liệu hiện tại,
viết một bộ lịch sử tư tưởng hãy còn là quá sớm. đành rằng trong những ngày gần
đây, đã có sự tiến bộ đáng kể về các khoa khảo cổ học, cổ nhân chủng học, ngôn
ngữ học, dân gian học. Tuy nhiên các khoa này còn để lại những khoảng trống
chưa dễ có thể lấp đầy trong tương lai gần. Vì vậy viết một bộ lịch sử lúc này
không thể không phải dùng đến những suy đoán thiếu dữ kiện khoa học. Nhưng mặt
khác, một bộ tư tưởng sử như trên đã nói đang là điều tối cần thiết - một điều
khẩn cấp - về phương diện quốc gia dùng để làm căn bản, làm hậu cứ cho mũi nhọn
chính trị đánh đổ độc tài xây dựng dân chủ ngạ hầu động viên được trí tuệ toàn
dân kịp xây dựng quốc gia bắt kịp đà tiến của nhân loại.; Về phương diện quốc tế,
để góp phần vào việc tìm ra được mẫu số chung cho sự cộng sinh cộng tồn của
nhân loại. Vậy có thể kết luận là : phải viết, hơn thế phải hoàn thành bộ sách
này càng sớm càng tốt. Phương pháp duy nhất để thực hiện được điều đó là cần có
sự hợp tác của nhiều người để cùng hợp soạn. Riêng bản thân người viết không lượng
sức mình, bấy nay đã viết và đã hoàn thành được một phần trong 18 quyển kể
trên. Người viết xin chọn đăng một số bài trong các bản thảo này để xin được sự
chỉ bảo của các bậc cao minh và quý bạn xa gần. Có nhiều cách hợp soạn : hoặc
chia nhau, tùy theo sở trường, mỗi người nhận viết một quyển, hoặc viết một
chương hay vài ba chương trong một quyển, hoặc phê bình, góp ý, cung cấp tài liệu,
bài vở đọc thêm. . . Còn một cách hợp tác nữa, có thể là cách hay nhất, là
chúng ta ngồi lại với nhau lập thành một Nhóm hay một Trung tâm, một Hội Nghiên
Cứu Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam hay xin cho phép chúng tôi đề nghị là Hội Phát
Triển Văn Hóa Việt Nam tại Quốc Ngoại để tùy tâm ,tùy sức, kẻ viết, người tán
trợ, kẻ góp công, người góp của cùng nhau hoàn thành sự nghiệp này. Rất mong được
Quí vị và các Bạn cho biết tôn ý.
Thư từ xin gửi về :
P.O. BOX 246 CROYDON PARK,
NSW 2133 - AUSTRALIA
Email :
tutuong@telstra.com
Chúng tôi kính cẩn chờ
mong hồi âm của Quí vị.
Sydney, ngày 15 tháng 3 năm 1999 đại diện HỘI PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA VIỆT NAM TẠI QUỐC NGOẠI
Ban Biên tập Tập San
TƯ TƯỞNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét