CÀu hiŠn
số 02
tiếng chim gọi đàn
²
m©i g†i h®p
soån
b¶ lÎch sº
tÜ tܪng viŒt
TIẾNG CHIM GỌI
ÐÀN
THƯ
NGỎ 1
-- Xin được gửi đến
Qúi vị độc giả và Bằng hữu bốn phương --
Địa chỉ cộng tác viên:
Mr. HOANG (boite 402)
Résidence Henri Sellier
123 rue de MALABRY
92350 Le
Plessis-Robinson (FRANCE)
E-mail: nguyen.hoang@free.fr
Kính thưa Quí vị,
Các bạn rất thân mến,
Gần đây, người viết
rất vui mừng khi thấy trên báo chí, trên truyền thanh, truyền hình, trong những
văn kiện của các đoàn thể, đã có nhiều người để ý đến vai trò của văn hóa trong
công việc đánh đổ độc tài, xây dựng dân chủ đặng giải phóng tư tưởng để toàn
dân được phát huy trí tuệ, cùng góp sức, góp phần, xây dựng quê hương. Ðúng
vậy, nếu chính trị là đội quân tiền phong, là mũi dùi đột phá thành trì của độc
tài, thì văn hóa, mà cốt lõi của văn hóa là tư tưởng, là đội quân chủ lực. Là
đầu não chỉ huy để hướng dẫn chính trị và nhất là, để tái thiết quốc gia một
khi độc tài không còn nữa. Hãy tưởng tượng một ngày nào đó, mà ngày ấy chắc
cũng không xa, khi cộng sản độc tài đã dứt thì chúng ta, những nhà lãnh đạo,
những bậc thức giả và toàn dân phải làm việc, phải tư duy theo đường hướng nào
để đưa đất nước tiến lên ngang tầm thời đại? Chúng ta phải tư duy theo lối cộng
sản như các sách viết theo lý luận Mác-xít của các tác giả theo cộng sản đã để
lại trên quê hương chúng ta sao? Và như thế thì chúng ta phải mất công đánh đổ
chế độ cộng sản làm gì? Hay quay lại theo các sách của các tác giả đã viết từ thời
thực dân để lại? Quay lại lối làm việc, lối suy nghĩ như thời quốc gia? Và như
thế thì "cũng như không" theo nhận định của đa số thức giả ngày nay.
Hơn nữa, những sách cũng cổ quá rồi, nhiều sách đã được khảo cổ học và các khoa
học mới chứng minh là không còn đúng nữa. Vậy tư duy theo cái gì? Tư duy theo
lối thực dụng và theo các triết lý hỗn tạp của những nước tạm dung chăng? Và
như thế thì sự chia rẽ vốn đã là một bệnh trầm kha trong cộng đồng người Việt
sẽ trở nên khủng khiếp biết là chừng nào?!
Tương lai thực sự
đen tối dù chúng ta đã phá bỏ được độc tài cộng sản nếu chúng ta không kịp có
những tài liệu về văn hóa, chủ yếu là về tư tưởng để bù vào lỗ
hổng khiếp đảm kia.
Ðó là mục đích mà hôm
nay người viết mạo muội viết bức thư này gửi đến Quí vị. Từ lâu, người viết có
ý muốn soạn một quyển tư tưởng sử Việt Nam. Nhưng khi tìm đến tài liệu thì thấy
hãy còn quá nhiều khoảng trắng. Trong hoàn cảnh như vậy, viết tư tưởng sử dường
như còn sớm vì không thể không dùng đến những suy đoán không có bằng chứng khoa
học. Do đó, những trang sách cứ còn nằm mãi trong đầu!
Nhưng đến nay thì
không thể chờ đợi được nữa! đã đến lúc chúng ta phải cùng nhau ngồi lại viết
một bộ SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
TƯ TƯỞNG VIỆT NAM. Người viết xin được mạn phép đưa ra một gợi ý, rất mong
được quý vị hồi âm đóng góp. Bộ sử đó nên chia làm 18 quyển theo trình tự như
sau :
·
·
Quyển thứ nhất - Quyển này viết về
tư tưởng người Việt cổ thời tiền sử, thời chưa có chữ viết. Căn cứ vào đâu để
có thể viết về tư tưởng hay đúng hơn, về tư duy của những người đã sống cách
chúng ta hàng ngàn năm đến hàng chục ngàn năm? Cái xương sống của việc tìm hiểu
tư duy này phải dựa vào khoa khảo cổ, và những công cụ tại các di chỉ khảo cổ
tìm được mà nhờ những tiến bộ khoa học ngày nay, nhất là khoa phóng xạ carbon
C14, người ta có thể đọc biết những tín hiệu tiền nhân muốn gửi gấm lại cho con
cháu, bọn hậu bối chúng ta.
Tuy nhiên nếu chỉ dựa
vào khảo cổ không thôi thì cũng không đủ. Dùng khảo cổ để tìm về sự thực ngày
xưa cũng như dùng phương pháp phân loại máu để tìm về phụ hệ. Nếu loại máu của
anh A có thể phủ nhận anh không phải là con của ông B; thì ngược lại, cũng
không thể khẳng định đích thực ông B không phải là cha của anh A.
Khảo
cổ cũng vậy : Khảo cổ có thể phủ định một sự thực trong quá khứ
không đúng như người ta đã quan niệm; nhưng nếu muốn khẳng định đâu là sự thực
thì phải cầu viện nhiều khoa học khác nữa bổ túc cho khảo cổ. Ðó là nhiệm vụ
của các khoa khảo cổ sử học, khoa cổ nhân chủng học, khoa ngôn ngữ học, dân tộc
học, xã hội học, văn học dân gian . . .....
Bao gồm trong quyển
một này, ngoài sự hình thành và những biến chuyển trong tư duy người Việt thời
Thái cổ, chúng ta cũng cần tìm hiểu về tiếng nói và chữ viết cổ của người Việt
có giống hay khác thứ chữ sau này tổ tiên chúng ta đã dùng trong nhiều thế kỷ
mà chúng ta gọi là chữ Nho hay chữ Tàu, chữ Hán.
Về việc thành lập nhà
nước Văn Lang, về một trong những thời kỳ cổ của Trung Hoa là thời Xuân Thu
Chiến Quốc mà người viết cho rằng có ảnh hưởng khá lớn đến việc tranh dành địa
bàn ngày nay là nước Trung Hoa giữa tộc Hoa với tộc Việt.
Việc thua phải rút
lui hay phải chịu sự đồng hóa của tộc Hoa. Sự thua, đồng hóa và rút lui của các
thủ lãnh từ miền bắc xuống miền nam tập trung ở lưu vực sông Hồng là một yếu tố
quan trọng cho việc củng cố lại nước Văn Lang thu hẹp mà ta gọi là Giao Châu.
Có một số câu hỏi mà bấy lâu nay vẫn làm nhức nhối các nhà nghiên cứu lịch sử.
Thí dụ như câu hỏi tại sao đại tộc Bách Việt có một nền văn hóa rực rợ và tiến
bộ vào bậc nhất nhân loại hồi ấy mà lại có thể bị thua và phải nhường phần đất
mầu mỡ nhất là phía nam sông Hoàng Hà và lưu vực sông Dương Tử cho người Hán?
Tại sao cũng cùng là
tộc Bách Việt mà những nước ở phía nam sông Dương Tử như nước Sở, Ðông Việt
(Ngô Việt), Mân Việt, Bách Việt (Hồ Ðộng Ðình), nước Lạc Việt của Việt Vương
Câu Tiễn (Quảng Ðông) cho đến những nước Ðiền, nước Dạ Lang, nước Thục (Quảng
Tây, Âu Việt) rồi Nam Việt (Triệu Ðà), vùng Triết Giang, Phúc Kiến (Giang Nam),
rồi Nam Chiếu tức nước Ðại Lý sau này, toàn là những nước đã từng có một nền
văn hóa khá cao mà lại bị đồng hóa dễ dàng bởi người Hán. Trong khi đó thì
người Âu Việt, Lạc Việt sau khi cũng đã bị mất và bị người Hán đô hộ cả ngàn
năm lại có thể lấy lại được tự chủ, được độc lập; mà những nước kia lại bị đồng
hóa luôn.
Tại sao Thục dưới
thời An Dương Vương xâm chiếm đất Văn Lang của Vua Hùng lại được dân coi là anh
hùng dân tộc và được thờ; trong khi đó Triệu Ðà là vua nước Nam Việt (bắc Hán,
nam Việt - lấy sông Dương Tử làm ranh giới), một ngành của Bách Việt khi xâm chiếm
Âu Lạc lại bị coi như ngoại xâm?
Lại nữa, những người
thuộc đại tộc Bách Việt bây giờ ở đâu? Họ có đúng là còn lại ở Trung Hoa và còn
chiếm một tỷ lệ cao bảy tám mươi phần trăm như nhiều nhà nghiên cứu đã nói
không?
Tất cả
những vấn đề đó sẽ được nhìn không phải chỉ dưới khía cạnh lịch sử mà điểm
chính là từ khiá cạnh đó sẽ cố gắng tìm ra cốt lõi tư tưởng người Việt trước
khi thu nhập các tư tưởng bên ngoài như Nho, Phật, Lão.
·
·
Quyển thứ hai - Quyển này viết về tư tưởng bình dân. Tư tưởng chính
của người Việt thời cổ không phải ở trong các tác phẩm chữ viết mà chính ở
trong văn chương truyền khẩu gồm có tục-ngữ, ca-dao, truyện nôm, truyền thuyết,
truyện cổ-tích ... Trong những tư tưởng bình dân có những tư tưởng có trước
thời kỳ Bắc thuộc, trước khi thâu hóa những tư tưởng ngoại lai, cũng có những
tư tưởng có trong hay sau thời kỳ Bắc thuộc.
Ðấy là những tư tưởng
đã hay đang thâu hóa những tư tưởng ngoại lai. Việc phân biệt đâu là tư tưởng
cốt lõi trước khi thâu hóa tư tưởng ngoại lai và đâu là những tư tưởng bị ảnh
hưởng tư tưởng ngoại lai không phải là việc đơn giản.
Việc phân biệt bao
nhiêu phần trăm tư tưởng bình dân là do cốt lõi tư tưởng dân tộc, bao nhiêu
phần trăm chịu ảnh hưởng từ các tư tưởng ngoại lai. Nói khác đi, mức độ nặng nhẹ
của ảnh hưởng những tư tưởng ngoại lai trên tư tưởng cốt lõi dân tộc trong văn
chương bình dân còn khó hơn nữa.
Tuy nhiên không ai
phủ nhận ảnh hưởng tư tưởng bình dân trong đời sống dân tộc Việt Nam. Và cũng
không ai lại không đánh giá cao việc bảo tồn văn hóa dân tộc dựa vào tư tưởng
bình dân, điều này rất là rõ rệt.
Bởi vậy sự quan trọng
của tư tưởng bình dân đối với đời sống của người Việt, nhất là đời sống của
người Việt ở nông thôn chiếm đại đa số dân tộc Việt, cũng như sự quan trọng của
tư tưởng bình dân trong việc giữ gìn văn hóa Việt Nam nói chung là điều quan
trọng.
Ðó là lý do tư tưởng
bình dân đuợc trình bày trong quyển thứ nhì. Quyển này sẽ chia ra : phần thứ
nhất nói về Trời, phần thứ nhì nói về đất và phần thứ ba nói về Người. Về Trời
nói chung sẽ có ba chương.
Chương thứ nhất nói
về những tín ngưỡng đầu tiên của người Việt cổ. Ngoài Trời sẽ nói về những tín
ngưỡng thiên nhiên khác như về thần sấm chớp, thần gió, thần mưa, nghĩa là
những thần tượng trưng cho những thế lực thiên nhiên, nhất là những thế lực
thiên nhiên ảnh hưởng đến đời sống nông nghiệp vốn là căn bản của văn minh
người Việt cổ.
Sau khi nói về tư
tưởng cổ, ta sẽ nói về tư tưởng Tam Giáo trong ca dao. Trong phần tư tưởng
thiên nhiên sẽ nhấn mạnh về đạo như đạo hai chiều "có đi có lại mới toại
lòng nhau". Từ đó có thể suy luận rằng triết lý Việt cổ rất gần với Kinh
Dịch và đặt vấn đề phải chăng Kinh Dịch là sản phẩm của người Bách Việt?
Ðến phần thứ hai nói
về đất, chia ra làm ba chương. Chương bốn nói về tình yêu quê hương, làng xóm,
yêu danh lam thắng cảnh. Chương năm nói về yêu những anh hùng dựng nước, giữ
nước, có công với đất nước về mọi mặt. Chương sáu nói về lòng nhớ quê của người
Việt cùng những kỷ niệm về quê hương cũ. Phần quan trọng nhất là về Người.
Chương bảy sẽ nói về tình yêu trong gia đình. Chương tám sẽ nói về tình yêu
trong xã hội. Chương chín sẽ nói về bách nhân, bách nghệ. Chương mười đặc biệt
cho tình yêu trai gái, sẽ phân ra làm ba trường hợp khác nhau.
·
·
Quyển thứ ba - Quyển này sẽ nói về tư tưởng Việt Nam thâu hóa được
trong thời kỳ Bắc thuộc, gồm có ba phần chính : phần Nho, phần đạo hay Lão và
phần Phật.
Mỗi phần lại chia ra
làm nhiều chương tùy theo từng thời kỳ thâu hóa trong lịch sử Việt Nam. Trong
quyển này cũng gồm có bốn chương chính. Chương thứ nhất nói về ảnh hưởng của
Phật Giáo từ khi mới du nhập vào Việt Nam cho đến hết thời Bắc thuộc và những
dư âm của nó sẽ còn quan trọng như thế nào trong những thời kỳ kế tiếp. Chương
thứ hai sẽ nói về ảnh hưởng sự du nhập của đạo học nói chung vào Việt Nam và
vai trò của nó trong đời sống dân tộc. Chương thứ ba sẽ nói về sự du nhập cũng
như ảnh hưởng của Nho Giáo trong thời Bắc thuộc qua từng giai đoạn một. Chương
thứ tư sẽ nói về sự hòa đồng ba tư tưởng Phật, Lão, Nho với tư tưởng cổ truyền của
dân tộc (tức đạo sống của dân tộc, hay Việt Ðạo).
·
·
Quyển thứ bốn - Sự thâu hóa những tư tưởng trên hòa nhập với cốt
lõi của tư tưởng Việt Nam vốn có những nét vô cùng độc đáo, sẽ đi đến những tư
tưởng đặc thù của nhà nước tự chủ Việt Nam thuộc thời kỳ Ðại Việt gồm từ Ðinh,
Lê, Lý đến Trần, Hồ.
Ðây quả là một thời
kỳ quan trọng nhất trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, và cũng là thời kỳ cần được
nghiên cứu kỹ càng nhất; vì đây có thể là tài liệu có công dụng lớn nhất trong
việc phục hưng văn hóa dân tộc.
Nghiên
cứu thời kỳ này chúng ta sẽ thấy Việt Nam có những sáng tạo lớn chứ không phải
tư tưởng Việt chỉ quanh quẩn trong Tam Giáo; dù đó là Tam Giáo đồng nguyên hay
Tam Giáo đồng lưu.
·
·
Quyển thứ năm - Ðối tượng của quyển thứ năm là tư tưởng Việt Nam từ
thời Lê sau cái chết của Nguyễn Trãi cho đến khi quốc gia bị chia
ra làm ba phần : Mạc, Trịnh, Nguyễn.
Thời Lê mà lịch sử
cũng như văn học sử vẫn thường coi là một thời kỳ rực rợ, phát triển cao độ của
nền quân chủ Việt Nam. Dưới ánh sáng của những phát minh mới về khảo cổ cũng
như về dân tộc học, người viết nhìn thấy rằng thực sự về
phương diện tư tưởng đây bắt đầu một thời kỳ suy thoái. Thời kỳ
mà người Việt đã bắt đầu đi sai định hướng cố hữu của tộc Việt. Ðành rằng đầu
thời Lê chúng ta sẽ thấy có những công trình về văn học, về luật học, tôi muốn
nói đến bộ luật Hồng Ðức rất là rực rợ. Nhưng đó chẳng qua chỉ là tia hồi quang
của nền văn hóa đã tiến đến cao độ thời Lý, Trần và thời Hồ.
Thực vậy, người xây
dựng, kiến trúc sư chính của những công trình này là Nguyễn Trãi, một người đã
sinh ra, đã lớn lên, đã thâu thái được cái cốt tủy của nền văn minh Ðại Việt
Lý, Trần. Nhưng cái chết của ông cũng như sự hy sinh của cả ba họ Nguyễn Nhị
Khê cũng đánh dấu sự suy thoái của nền văn minh Ðại Việt trước sự bành trướng
của văn hóa Trung Hoa.
Oái oăm
thay! lúc chúng ta chiến thắng về quân sự cũng là lúc chúng ta bắt đầu thua
trên mặt trận văn hóa để cho tinh hoa của dân tộc bị thương tổn trầm trọng kéo
theo sự suy thoái của cả một dân tộc, kết quả đã đưa đất nước dần đến chỗ bại
vong và bị mất nước về tay người Pháp sau này.
·
· Quyển thứ
sáu - Quyển này nói về tư tưởng thời kỳ đất nước bị chia hai : Mạc, Trịnh.
Ðây là một thời kỳ
hết sức đặc biệt, không những chỉ đặc biệt đối với nước ta mà còn là thời kỳ
nhân loại trên thế giới bắt đầu thức giấc sau giấc ngủ dài của thời Trung cổ.
Dân Việt
cũng cùng tâm trạng với cộng đồng thế giới. Chính Mạc đăng Dung là người đã
đứng lên làm cuộc cách mạng này Ông đã có cái nhìn ra biển cả, định hướng dẫn
dân Việt tham gia cuộc cách mạng Trọng Thương này.
Ðáng tiếc
tư tưởng cấp tiến của ông không được hưởng ứng để cuối cùng hai họ Trịnh Nguyễn
lại kéo dân Việt thụt lùi lại thời Trung Cổ.
Các sử gia
trước đây có thể vì lý do nào đó đã không nhìn thấy hoặc làm như không nhìn
thấy và thường đánh giá nhà Mạc như một Ngụy triều. Do đó tư tưởng thời này
cũng coi như không có gì đáng kể. Ðây là khúc quanh quan trọng quyết định vận
mệnh của dân tộc.
Ðã đến lúc
chúng ta phải tìm biết sự thực ngọn ngành để trả công đạo về cho lịch sử và rút
bài học cho các thế hệ mai sau.
·
· Quyển thứ
bảy - Nhà Mạc dứt, tiếp theo là thời kỳ Nam bắc phân tranh kéo dài gần 200
năm.
Ðứng về phương diện
lịch sử cũng như về phương diện tư tưởng sử, đây là thời kỳ có nhiều mâu-thuẫn
nhất, vừa có những tiến bộ ngoạn mục, lại vừa có những thoái trào sâu sắc :
-
Về lịch sử, lãnh thổ đã mở rộng cương vực về phía Nam
nâng diện tích đất nước lên gần gấp hai lần trước; nhưng đồng thời cũng lâm
thời chia dân Việt ra làm hai quốc gia khác nhau (Hoàng Lê Nhất Thống Chí : đối
thoại giữa Nguyễn Huệ và vua Lê đã dùng danh từ Tệ quốc, Qúy quốc)
-
Về tư tưởng sử, đây là lúc đang dần dần tiếp thu hai
miền đất mới (Chiêm Thành, Thủy Chân Lạp) đương nhiên cũng tiếp thu luôn hai
nếp sống mới, hai nền văn hóa mới để hòa nhập với văn hóa Việt.
Những nền
văn hóa khác biệt này đương nhiên khi hòa đồng với nhau cũng phải có những va
chạm, những trăn trở, cả những xung đột nữa mà không phải lúc nào cũng êm đềm
không sóng gió.
Phản ánh
những biến chuyển này trong tư tưởng người dân Việt thời kỳ này ra sao?
·
·
Quyển thứ tám - Quyển này dành để nghiên cứu tư tưởng thời Tây Sơn.
Nhà Tây
Sơn tuy rất ngắn ngủi (1778 Nguyễn Nhạc xưng đế ở Qui Nhơn, 1802 Gia Long lên
ngôi vua) nhưng lại là một triều đại đặc biệt trong một thời kỳ lịch sử cũng
rất đặc biệt. Không chỉ đặc biệt vì thiên tài quân sự của vua Quang Trung đã
tạo được những chiến công quân sự hiển hách vào bậc nhất trong lịch sử - hẳn đã
gây nhiều kiêu hãnh cho người Việt và cũng tạo không ít những kỳ vọng vào tương
lai xứ sở cho mỗi người dân thời đó - mà còn vì thời kỳ này trùng hợp với thời
kỳ trên thế giới có nhiều biến cố trọng đại mở màn cho lịch sử nhân loại ngày
nay: Năm 1776 anh em Nguyễn Nhạc chiếm được thành Qui Nhơn khởi đầu triều đại
Tây Sơn. Năm đó cũng là năm Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ tuyên bố Hiến pháp độc lập;
năm Adams Smith mở đầu thời kỳ kinh tế tự do, năm James Watt sáng chế máy hơi
nước, khơi nguồn cho cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Âu Châu và cũng là nguyên nhân
cho kinh tế Tây phương cất cánh. . . Vì sao dân Việt đã lỡ chuyến tầu không cất
cánh được như Nhật Bản hay nhân loại phương Tây? Nhiệm vụ quyển tám phải tìm
cho được lời giải thích thỏa đáng vậy.
·
· Quyển thứ chín và thứ
mười - Quyển chín và quyển mười đều nói về tư tưởng thời Nguyễn.
Quyển chín
bàn đến tư tưởng người Việt khi chưa có sự xâm lấn của thực dân Pháp. Quyển
mười chuyên về tư tưởng đối kháng với sự đe dọa bị mất nuớc vì một kẻ thù mới
không phải là kẻ thù phương Bắc, với những khí giới mới, những kỹ thuật mới và
sự tư duy mới, chúng ta chưa hề gặp trong quá trình lịch sử. Tài liệu để lại
trong thời này đã khá phong phú. Vấn đề chỉ còn là phải suy nghĩ thế nào để
không bị chi phối bởi lối suy luận của những người đã viết ra và để lại những
tài liệu đó, hầu tiếp cận được sư thực bởi những tài liệu này thường đã bị diễn
dịch sai dù về phía người Việt hay người Pháp.
·
· Quyển thứ
mười một và mười hai - Quyển thứ mười một và mười hai nói về tư tưởng Việt
Nam thời kỳ thâu hóa thứ nhì, khi bắt đầu tiếp xúc với Tây phương cho đến năm
1945.
Ðây là một
thời kỳ phức tạp. Ngoài văn chương Hán Nôm, chúng ta bắt đầu có văn chương chữ
Quốc-Ngữ. Ngoài những tư tưởng cổ đông phương, chúng ta bắt đầu tiếp xúc với
những tư tưởng Tây phương. Nhìn về một khía cạnh có thể ta thấy như Tản đà :
Than ôi! văn minh
đông Á trời thâu sạch,
Này lúc cương thường
đảo ngược ru?
Nhưng ở một khía cạnh
khác, quả Việt Nam đã thâu hóa được những nền văn hóa lớn nhất của Tây phương
và đã trải qua thời kỳ cực kỳ khó khăn nhưng cũng cực kỳ vinh hiển mà ảnh hưởng
hãy còn sâu đậm cho đến ngày nay.
Tư tưởng thời kỳ Pháp
thuộc nhưng Pháp chưa bình định được đất nước ta được trình bày trong quyển
mười một trong khi quyển mười hai dành để nói về thời kỳ thứ hai, cuộc bình
định đã tạm yên và việc chống đối Pháp đã chuyển sang một khía cạnh khác.
·
· Quyển thứ
mười ba và mười bốn: Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với văn hóa Tây phưong
bao gồm cả sự tiếp xúc với nền tư tưởng cực đoan nhất của Tây phương là tư
tưởng Mác-xít và đã đưa đến thảm cảnh nồi da sáo thịt trong suốt hơn ba chục
năm. Tư tưởng hoàn toàn xáo trộn, xung khắc mãnh liệt và để lại những hậu quả vô
cùng lớn lao, những vết hằn vô cùng sâu đậm trong tâm trí của mỗi người Việt.
Quyển mười ba và mười
bốn khởi đầu từ năm 1945, năm Việt Minh cướp chính quyền cho đến năm 1954, khi
đất nước chia đôi.
Quyền mười ba nói về
tư tưởng phát triển ở vùng quốc gia, không bị chính quyền Cộng sản khống chế,
nhưng thường chịu ảnh hưởng của ngoại bang vì là vùng do Pháp tạm chiếm. Quyển
mười bốn viết về tư tưởng ở vùng do chính quyền Việt Minh kiểm soát càng ngày
càng lộ mặt theo chế độ Cộng sản nên tư tưởng cũng là tư tưởng dần dần chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa Mác-xít.
·
· Quyển mười
lăm và mười sáu: Thời kỳ từ năm 1954, khi đất nước bị chia đôi đến năm
1975 khi miền Nam bị miền Bắc cưỡng chiếm cũng được chia làm hai quyển :
Quyển mười lăm viết
về tư tưởng phát triển ở miền Bắc Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản.
Quyển mười sáu về tư
tưởng phát triển ở miền Nam Việt Nam sống dưới ảnh hưởng của tư bản rõ hơn là
của Mỹ đã thay thế Pháp để giúp người quốc gia chống với khối Cộng Sản.
·
· Quyển mười
bảy và mười tám:Thời kỳ từ 1975 đến nay sẽ được nghiên cứu và trình
bày trong hai quyển mười bảy và mười tám : 30/4/1975 là ngày mà miền Bắc với sự
lãnh đạo của khối Cộng Sản đã chiếm được miền Nam và đã đặt toàn cõi Việt Nam
dưới sự chi phối của khối Cộng Sản.
Một số khá lớn những
người Việt, chính yếu là ở miền Nam nhưng rồi sau có cả những người miền Bắc đã
bỏ nước ra đi tìm tự do, sống ở khắp mọi phương trời trên hành tinh này. Họ đến
đâu cũng cố gắng làm báo, viết sách và phát huy tư tuởng Việt Nam ở đó. Do đó,
quyển muời bảy viết về những tư tưởng Việt Nam phát triển ở trong nước và quyển
mười tám là tư tưởng Việt Nam của những người vong quốc sống khắp mọi nơi trên
trái đất mà bốn trung tâm lớn là ở Bắc Mỹ, Âu Châu, Gia Nã Ðại và Úc Châu.
18 quyển sách trên
tuyệt đối không có mục đích công kích hay khen chê một tập thể nào, hay một cá
nhân nào, cũng không có mục đích chỉ đề cao chủng tộc của mình mà hạ thấp chủng
tộc khác.
Vả lại công việc đó
trước kia có thể còn có chút ý nghĩa thì ngày nay không còn là điều quan trọng
nữa bởi nhân loại đang bước vào kỷ nguyên mới mà sự phân biệt quốc gia càng
ngày càng ít được quan tâm.
Trái đất càng ngày
càng chứng tỏ là căn nhà chung của nhân loại mà sự sống chết của tộc này với
tộc khác, của vùng này hay vùng kia rồi sẽ liên hệ càng ngày càng chặt chẽ với
nhau.
Cũng đã đến lúc mà
không còn một quốc gia này có thể thôn tính quốc gia khác, hiểu theo
nghĩa thôn tính về quân sự.
Mục đích của những
tập sách này, trước hết để giúp cho những con em người Việt, dù ở trong nước,
dù đã phải bỏ nước ra đi sống ở khắp mọi phương trời biết được nguồn gốc của
mình, biết được mình là ai hầu có thể sống trong một xã hội chung, đa văn hóa,
xã hội của loài người, góp phần trong việc xây dựng tư tưởng chung cho loài
người hầu có thể sống êm thắm và có thể cùng tồn tại trên trái đất.
Tuyệt đối không phải
là tìm ra một cái gì riêng rẽ để mà ganh đua để mà ghen ghét với người khác và
cũng không phải để mà tự hào về dĩ vãng huy hoàng nào đó nếu hiểu theo sự tự
hào là tự cao tự đại.
Như trên đã nói,
người viết hiểu rất rõ rằng, trong hoàn cảnh tài liệu hiện tại, viết một bộ
lịch sử tư tưởng hãy còn là quá sớm. Ðành rằng trong những ngày gần đây, đã có
sự tiến bộ đáng kể về các khoa khảo cổ học, cổ nhân chủng học, ngôn ngữ học,
dân gian học. Tuy nhiên các khoa này còn để lại những khoảng trống chưa dễ có
thể lấp đầy trong tương lai gần. Vì vậy viết một bộ lịch sử lúc này không thể
không phải dùng đến những suy đoán thiếu dữ kiện khoa học.
Nhưng mặt khác, một
bộ tư tưởng sử như trên đã nói đang là điều tối cần thiết - một điều khẩn cấp -
về phương diện quốc gia dùng làm căn bản, làm hậu cứ cho mũi nhọn chính trị
đánh đổ độc tài xây dựng dân chủ ngõ hầu động viên được trí tuệ toàn dân
kịp xây dựng quốc gia bắt kịp đà tiến của nhân loại.
Về phương diện quốc
tế, để góp phần vào việc tìm ra được mẫu số chung cho sự cộng sinh cộng tồn của
nhân loại.
Vậy có thể
kết luận là : Phải viết, hơn thế phải hoàn thành bộ sách này càng sớm càng tốt.
Phương pháp duy nhất để thực hiện được điều đó là cần có sự hợp tác của nhiều
người để cùng hợp soạn.
Riêng bản
thân người viết không lượng sức mình, bấy nay đã viết và đã hoàn thành được một
phần trong 18 quyển kể trên. Người viết xin chọn đăng một số bài trong các bản
thảo này để xin được sự chỉ bảo của các bậc cao minh và quý bạn xa gần.
Có nhiều
cách hợp soạn : Hoặc chia nhau, tùy theo sở trường, mỗi người nhận viết một
quyển, hoặc viết một chương hay vài ba chương trong một quyển, hoặc phê bình,
góp ý, cung cấp tài liệu, bài vở đọc thêm....
Còn một
cách hợp tác nữa, có thể là cách hay nhất, là chúng ta ngồi lại với nhau lập
thành một Nhóm hay một Trung tâm, một Hội Nghiên Cứu Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam
hay xin cho phép chúng tôi đề nghị là Hội Phát Triển Văn Hóa Việt Nam tại
Quốc Ngoại để tùy tâm ,tùy sức, kẻ viết, người tán trợ, kẻ góp công, người
góp của cùng nhau hoàn thành sự nghiệp này.
·
Rất mong được Quý Vị và các Bạn cho biết tôn ý.
Thư từ xin gửi về :
P.O. BOX 246
CROYDON PARK, NSW 2133 - AUSTRALIA
Email :
tutuong@telstra.com
hay
Địa chỉ cộng tác viên: Mr.
HOANG (boite 402)
Résidence
Henri Sellier, 123 rue de MALABRY
92350
Le Plessis-Robinson (FRANCE)
E-mail: nguyen.hoang@free.fr
Chúng tôi kính
cẩn chờ mong hồi âm của quý vị.
Sydney, ngày 15 tháng
3 năm 1999 đại diện HỘI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TẠI QUỐC NGOẠI Ban Biên tập Tập San TƯ TƯỞNG
+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++
THƯ NGỎ 2
Kính gửi Quý Vị Ðộc
Giả Và Bằng Hữu thân thương,
Kể từ bức thư ngỏ thứ
nhất trong mục "Tiếng chim gọi đàn" gửi đi, Tập San TƯ
TƯỞNG đã nhận được khá nhiều hồi âm của các bằng hữu xa gần hưởng ứng và khuyến
khích công việc biên soạn bộ Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam. Tưởng đã đến lúc có thể
đi vào giai đoạn thực hiện.
Chúng tôi viết bức
thư này xin gợi vài ý kiến sơ khởi để xin thỉnh ý quý vị. Một bức thư với những
đề nghị cụ thể chi tiết hơn, sẽ được soạn thảo và gửi đến quý vị bằng đường bưu
điện. Rất mong khi nhận được, xin quý vị bớt chút thì giờ nghiên cứu, bổ khuyết
và gửi lại địa chỉ Tập San TƯ TƯỞNG để anh em tòa soạn đúc kết thành bản hướng
dẫn chung cho việc biên soạn bộ Tư Tưởng Sử. Việc biên soạn bộ sách lớn như thế
này nhất định không phải là công việc của một người hay một nhóm người.
Trong hoàn cảnh của
những người Việt hải ngoại hiện tại, việc này phải được đại diện bởi những
người trí thức vẫn một lòng chung thủy với đất nước. Chẳng may, vì vận nước,
những người ấy phải nổi trôi khắp nơi trên mặt địa cầu, thường còn mang tâm sự
của kẻ bị đi đày biệt xứ, đi đầy mà không do lỗi của mình. Nhìn về dĩ vãng chỉ
thấy những lầm với lỡ, toàn một cảnh đau thương tủi hận. Nhìn về tương lai, chỉ
gặp những rẽ cùng chia, toàn một màu ảm đạm tối tăm: Con cháu lớp hậu bối rồi
sẽ thành công cả đấy. Nhất định họ sẽ được sống cuộc đời vật chất đầy đủ. Nhưng
về đường tinh thần thì sao? Phải chăng rồi họ sẽ trở thành những kẻ vong
thân mất hướng? Và rồi qua cơn hăng say vật lộn để chiếm được địa vị
cao sang trong xã hội mới, họ làm sao thoát được cuộc sống cô đơn
về phương diện tinh thần, khác gì tâm sự của kẻ bị đi đầy biệt xứ như
lớp cha anh? Lớp cha anh còn có lý do múa may loạn xạ để khỏa lấp nỗi buồn tha
hương. Lớp trẻ mai sau khi không còn lý do này nữa thì họ sẽ làm gì? Sự thực
này ai cũng thấy mà chẳng ai nói ra.
Nhưng ngày tháng qua
mau. Tuổi lớp người vong quốc tiền phong mỗi ngày một già. Lác đác đã có những
người ra đi vĩnh viễn. Chúng ta phải làm ngay một cái gì trước khi không còn
thời giờ nữa. Chúng ta phải trang bị cho con em chúng ta và lớp hậu duệ mai sau
cuộc sống làm người dân Việt, có như thế mới không bị vong thân dù sống ở bất
cứ chân trời nào, mang bất cứ quốc tịch nào.
Lịch sử đã sang
trang. Thời đại này là thời đại mới. Không cứ chỉ ở nước Việt mới là người
Việt. Cũng không cứ đã là người Việt thì không đóng trọn vai trò công dân một
nước khác dù Anh, Mỹ hay Pháp, Úc. Nhưng đã sinh ra là giống Việt thì dứt khoát
phải là một người Việt trước đã. Không trang bị tinh thần đủ là người Việt thì
sẽ chẳng thể thành người gì khác cho tốt được.
Bởi vậy, lúc này, và
không thể để trễ hơn nữa, chúng ta cần một dự án để trang bị cho con cái và hậu
duệ của chúng ta phải thực sự là người có văn hóa mà bắt đầu là văn hóa Việt :
-
Về pháp lý : Một Hội mang tên
"HỘI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM TẠI QUỐC NGOẠI" đã được thành
lập tại Sydney - NSW. Những chi nhánh rồi sẽ được lập nên tại những nơi có đông
người Việt cư ngụ.
-
Về tài chánh và quản trị: do ban
quản trị của hội phối hợp với những mạnh thường quân và bằng hữu muôn phương
tình nguyện tham gia đảm trách.
-
Về nhân sự : sẽ mời gọi các vị
thức giả khắp mọi nơi
tham gia
vào bốn nhóm :
1/ -
Nhóm người viết tham luận và sưu tầm tài liệu.
2 /- Nhóm
chấp bút soạn Tư Tưởng Sử.
3 /- Nhóm
duyệt sách.
4 /- Nhóm
cố vấn.
- Người viết
tham luận sẽ tùy theo khả năng chuyên môn và tài liệu mình có, viết bất cứ về
đề tài gì miễn có liên quan đến lịch sử nói chung, tư tưởng Việt Nam nói riêng,
nhắm mục đích bồi dưỡng cho lớp trẻ và thế hệ mai sau về vũ trụ quan, về nhân
sinh quan của người Việt sống tại bất cứ nơi nào trong cộng đồng nhân loại. Bài
viết gửi bằng Email (điện thư) về các địa chỉ của Hội. Nếu không tiện viết qua
đường điện thư, người viết có thể đánh máy vào floppy disk hoặc viết tay gửi
qua đường bưu điện. Bài viết sẽ được sắp xếp và lưu trữ theo thứ tự thời gian
nhận được.
-
Số người tham gia vào việc biên soạn bộ sử càng nhiều
càng tốt. Nhưng nếu chấp thuận Bộ Sử phải gồm ít ra là 18 quyển, trên dưới
10.000 trang khổ A4 thì người viết cũng không thể dưới
con số 15
vị được. Tất nhiên khi viết sử, người chấp bút nên viết theo thứ tự niên đại
chứ không theo tài liệu nhận được.
-
Số người tham gia nhóm duyệt lại cũng cần tương đương
số người chấp bút.
-
Nhóm cố vấn sẽ tham gia vào công việc biên soạn trong
mọi giai đoạn từ khi gom góp tài liệu đến lúc sách phân phối đến tay người đọc.
Trên đây
chỉ là vài đề nghị gợi ý để tiện bề thảo luận. Bản đề án chính thức nếu được sự
đồng ý của quý Vị, sẽ được Ban Biên Tập Tập San TƯ TƯỞNG soạn sau khi đã nhận
được ý kiến đóng góp của thân hữu bốn phương.
Cũng may,
nhờ tiến bộ của tin học hiện đại, các kẻ vong quốc sống tản mác muôn phương,
lại có thể hợp quần để làm được việc có ích trong những năm còn lại của cuộc
đời Cuộc đời chúng ta có thể chẳng còn bao nhiêu, nhưng cuộc đời của một tổ
chức, một hội đoàn thì phải lâu dài. Những điều chúng ta chưa làm được trong
phần đời còn lại, lớp trẻ sẽ kế tục chúng ta đi tiếp con đường đã vạch. Sự đóng
góp của chúng ta vào công việc chung tùy thuộc thời gian và sức khỏe của mỗi
người. Ðiều quan trọng nhất là đóng góp chút uy tín của chúng ta - cái uy tín
có thể cũng chẳng nhiều nhặn gì, nhưng là uy tín của những con dân chưa hề làm
gì lầm lỗi với đồng bào và tổ quốc - vào một tổ chức văn hóa chung để tổ chức
này có đủ bảo đảm khả dĩ giúp cho lớp đi sau có thể lấy đó làm bàn đạp góp phần
vào việc xây dựng đất nước và phục vụ nhân sinh.
Xin quý vị
nhận trước nơi đây lời cảm tạ chân thành của Ban vận động biên tập.
·
Ðại diện Ban biên tập Sydney, ngày 09/09/1999.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét