BÀI THUYẾT
TRÌNH VỀ CHỦ ÐỀ
NHU CẦU CANH
TÂN TƯ TƯỞNG
(bài 3.01 = bài
thứ nhất trong năm học thứ 3)
bài số 3.01
Soạn giả NAM ÐỊNH
Bài này gồm 4 phần:
◼
Thông báo (mời cộng tác)
◼
Thuyết trình (gợi ý)
◼
Tham luận (đọc thêm)
◼
Hội Luận (trao đổi ý kiến)
THÔNG BÁO (mời cộng tác)
Ngạn ngữ thời Hùng Vương
có câu:
Một cây làm chẳng nên
non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Tức là nước Văn Lang được hình thành là
nhờ vào 3 loại cây: cây Tre (quốc phòng); cây Lúa (kinh tế) và cây Cau (Văn Hóa
Lạc Việt) thì mới tạo được khí phách Rồng Tiên.
➢
Ðó là 3 yếu tố cần phải có để thoát hiểm
tiêu vong, xây dựng thế Rồng Tiên đã được minh họa trên mặt trống đồng Ðông Sơn
Nay muốn cứu nước thì
cũng phải có đầy đủ 3 yếu tố là: Tự chủ, Kinh tế phồn thịnh và Việt triết hợp
thời.
Làm sao để có 3 yếu tố
này là đề án thoát hiểm do thế hệ chúng ta sáng tạo.
Muốn chữa bệnh tụt hậu,
suy thoái Tư Duy và lệch hướng Tư Tưởng thì phải nhìn thẳng vào bệnh
lý và nguyên nhân gây ra nó thì mới chữa được. Không nên suy đoán bệnh lý rồi vội
vàng tìm nhầm thuốc để vô tình tự sát.
Chúng ta muốn có một
tâm hồn lành mạnh, nhân hậu trong một cơ thể cường tráng thì chính chúng ta phải
có ý chí và nghị lực để tự canh tân tư tưởng và xây dựng cơ chế tổ chức xã hội
thì mới có phương tiện phát triển đất nước để bằng người theo đường lối:
➢
Kết hợp toàn dân trong thế dân tộc đồng
tiến với tư tưởng và văn hóa thuộc khoa học Nhân Văn Việt Tộc.
Khoa học nhân văn
không phải là khoa học thực dụng, nên các vị khoa bảng chưa chắc đã có ý niệm
xây dựng đất nước và con người bằng những người có Tâm Việt và Hồn Việt: Trăm
hay không bằng tay quen.
Rằng:
Khoa Bảng, Trí Thức và Kẻ Sỹ tuy 3 giới cùng làm việc bằng trí óc cả; nhưng
hoàn toàn khác nhau về tư duy và tư tưởng.
Xét về tổ chức xã hội hiện
tại:
Rằng: Mô hình tổ chức xã hội là phương tiện bảo vệ sự tự chủ.
Thế mà: Hiện nay, cơ cấu tổ chức xã hội của chúng ta đã hoàn
toàn bị tan rã do Gia Long (1802) chủ tâm phá hủy, không còn giống như thời tự
chủ: Hùng Vương, Lý, Trần, hậu Lê và nhà Hồ nữa. Coi bộ luật hình sự của các
triều đương thời thì biết là họ đã chú trọng đến sự kết hợp toàn
dân như thế nào; thế
mà luật Gia Long lại sao chép luật của nhà Thanh đem về tu bổ đôi chút cho hợp
với ý của ông vua đã đem voi Tây về dày nát mả tổ Việt.
Nên nhớ nhà Thanh
(Mandchourie; rợ Kim) là ngoại chủng vào thống trị dân Tàu nên luật của họ là
luật áp bức và trù dập dân bị trị.
Xét kỹ về bộ luật hình
sự của Gia Long, cùng với tài liệu trong sách Con Rồng nước Nam của Hoàng Ðế Bảo
Ðại thì chúng ta thấy:
1.
Gia Long coi dân Bắc là ngoại chủng và là
kẻ thù nguy hiểm nên đã đặt ra luật riêng để trừng trị.
2.
Gia Long quyết tâm tiêu diệt dân Tây
Nguyên chỉ vì đó là dân Chiêm (xứ Nam Bàn) đã dám cung cấp voi trận, ngựa chiến,
quân nhu và tình nguyện đi lính cho anh em Tây Sơn. Như vậy là chính Gia Long đã
chia đất nước làm 4 vùng là: Bắc kỳ (đàng ngoài), Trung kỳ, Tây Nguyên và Nam Kỳ.
Mỗi vùng một luật khác nhau.... Thế mà ông ta dám vỗ ngực là có công thống nhất
đất nước do chính tổ tiên ông chia đôi.
Nói
cho đúng ra là ông nhờ bạo lực ngoại bang để thâu tóm đất nước, nhưng ông thất
nhân tâm nên không thống nhất được lòng dân. Như vậy không thể nói là ông thống
nhất đất nước được, phải nói là ông nhờ võ lực thực dân Pháp để Thống Trị toàn
dân mới đúng. Ông tranh đấu cho quyền lợi của dòng họ Nguyễn Phúc chứ ông đâu
có tranh đấu cho quyền lợi của toàn dân.... Giống y chang Việt Cộng ngày hôm
nay.
Xét về con người:
Ngày hôm nay, quan niệm
sống của người Việt phần lớn là lơ-là với vận mệnh của đất nước chỉ vì: Lạc Hồn dân Việt nên người lòa lại
đi dắt đường cho người sáng. Bằng cớ là dân ta không những chưa thể kết hợp với
nhau được mà lại còn ngáng cẳng nhau, chụp mũ và phỉ báng nhau một cách vô tội
vạ và vô trách nhiệm.
Sự lạc hồn này bắt nguồn
từ sự nghi ngờ của Ðại Vương Lê Lợi đối với công thần thuộc hàng kẻ sỹ, nên nó
di hại cho đến ngày hôm nay.
Chúng tôi sẽ phân tích
rõ trong mục nguyên nhân suy thoái tư duy và phần tham luận trong bài này. Cụ
thể là trong lúc xây lực kháng chiến Lam Sơn, để yên lòng người, kết hợp mọi sức
mạnh về võ lực cũng như về trí tuệ thì Quốc Sư Nguyễn Trãi đã phải sai người
dùng mỡ
heo viết lên lá cây khẩu
hiệu "Lệ Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần" để kiến cắn, lá rụng trôi
theo dòng nước rồi phao um lên là Thiên Mệnh.
Vậy
thì:
Ngoài vấn đề xây dựng
con người thuộc về phần Việt Giáo,
chúng ta còn phải nói đến Việt Ðạo
dùng để xây dựng xã hội hài hòa và Việt
Triết dùng để bảo vệ tự chủ thì mới có cơ hội phát triển đất nước ngang
với Mỹ, Pháp, Ðức và Nhật được; mà ta gọi là Canh Tân đất nước.
Tóm lại:
Ba môn học sau đây là
cái vốn căn bản cần phải có thì mới có thể sáng tạo ra đề án phát triển đất nước
cho ngang vai cùng người được.
Ba môn học này cần phải
học song song ngay sau khi lấy lại được chủ quyền từ tay bọn vong nô Việt Cộng.
Vì chúng chủ trương phải có Bác Mác, Bác Lê, Bác Mao, Thánh Khổng…. dắt đường
chỉ lối thì dân ta mới biết đường sống, trong khi đó thì chúng ta chủ trương phải
Tự Lực và Tự Cường, tự sáng tạo ra đường đi cho dân tộc mình. Ba môn học chính
là:
➢
Việt
Giáo, tức giáo lý học làm người Việt.
➢
Việt
Ðạo, tức con đường phải đi của dân Việt để có xã hội
hài hòa bên trong và thế đứng độc lập bên ngoài.
➢
Việt
Triết, tức triết lý của người Việt về cách sinh sống
trong thế toàn cầu hóa. Nói khác đi là kế sách thoát hiểm do chính chúng ta
sáng tạo ra thì mới tránh được cảnh dịch chủ tái nô, ít nhất là về ý chí, về tư
duy độc lập và về tư tưởng hợp thời.
Một
tỷ dụ cho dễ nhớ: Ở NEW YORK, chúng ta có nhà máy sản xuất đủ
loại hàng hóa tốt, giá rẻ cần cho thị trường ở FLORIDA cách xa hàng ngàn cây số.
Phương tiện phân phối là xe chở hàng với 2 toa bự chạy trên xa lộ và chúng ta
có 3 nhu cầu sau đây:
1.
Tài xế giỏi đi đường xa không biết mệt
2.
Phương tiện chuyên chở (xe tốt).
3.
Kỹ sư sáng tạo giỏi làm việc trong nhà
máy ở New York
Sau chót chúng ta phải
có người giỏi đi nghiên cứu thị trường ở Florida cần loại hàng gì; tức là người
làm marketing.
So sánh:
●
Việt
Giáo thuộc về huấn luyện nhân sự, tức tài xế có khả năng
đáp ứng được nhu cầu.
●
Việt
Đạo tức mô hình xã hội hài hòa như việc xe phải tốt đi
đường xa không hư dọc đường.
●
Việt
Triết tương đương với việc đào tạo kỹ sư giỏi.
Sau chót là phát triển
đất nước tương đương với nghiên cứu thị
trường thế giới xem họ cần gì ở Ta và Ta cần gì ở họ với mục tiêu là: Bảo vệ tự chủ. Còn mất tự chủ như thuyền
không lái, chẳng làm được cái gì cả (marketing
mondial).
Tuy nhiên với phương
tiện khoa học điện toán chúng ta vẫn có thể thi hành một phần mà không cần phải
nắm quyền như: Chương trình nhân văn Việt tộc trên Diễn Ðàn mà chúng ta đang
khai dụng.
Ngoài ra không ai cấm
chúng ta đưa ra một lộ trình tiến tới mục tiêu để tre già măng mọc; vì đây là
chương trình dài hạn, một vài thế hệ không thể hoàn tất được:
1.
Giành lại chủ quyền và phục hồi thực lực,
người xưa đã phải để ra 10 năm mới làm xong.
2.
Phát triển đất nước (canh tân xứ sở) cần
10 năm thì mới bắt kịp người.
✧
Thưa
đồng bào,
Như Ban Học Vụ đã
trình bày, việc nước là việc chung. Suy thoái tư duy, lạc hồn dân Việt là do chương
trình giáo dục của lịch sử đã qua mà chúng ta không sửa được.
Nay muốn xoay chuyển lịch
sử tương lai cho con cháu đừng chịu thảm cảnh như chúng ta thì việc tham gia
sinh hoạt chánh trị, nhất là ngành giáo dục là bổn phận của mọi người.
Có bắt tay vào việc
thì mới thay đổi được lịch sử hiện tại để xoay vần lịch sử tương lai theo ý muốn
của mình; đừng nại cớ không có khả năng để đùn việc cho người khác.
Ở đời chẳng bao giờ có chuyện bất chiến tự nhiên thành cả. Vì: Tay làm hàm nhai, tay quai hàm chết đói. Ỷ lại vào nguời tức là chấp nhận nô lệ; tự mình không sống nổi.
Ở đời chẳng bao giờ có chuyện bất chiến tự nhiên thành cả. Vì: Tay làm hàm nhai, tay quai hàm chết đói. Ỷ lại vào nguời tức là chấp nhận nô lệ; tự mình không sống nổi.
Biết mà không nói để
thoát hiểm tiêu vong là trọng tội đối với dân tộc, nên Ban Học Vụ mới đề xướng
ra chương trình Nhân Văn Việt Tộc trong 7 năm gồm 2 phần là:
(1)
Khôi phục khí thề trong 2 năm bằng bài
Giáo Khoa
(1)
Canh Tân Tư Tưởng trong 5 năm dưới dạng Hội
Luận vì cần sự đóng góp của nhiều người.
Năm nay là năm thứ ba,
bài đầu tiên (3.01) là thảo luận về "Nhu Cầu Canh Tân Tư Tưởng".
Vậy thì câu hỏi được đặt
ra là: Tại sao phải canh tân tư tưởng? Không canh tân tư tưởng thì chuyện gì sẽ
xảy ra? Canh tân theo chiều hướng nào và tới đâu thì đủ?
Canh Tân Tư Tưởng thuộc
về phần Việt Giáo, chúng ta còn Việt Ðạo và Việt Triết như đã trình bày thì mới
hoàn tất được con người và mô hình xã hội trước khi thực sự Phát Triển đất nước
cho bằng người.
Việc đất nước là việc
chung, Ban Học Vụ xin kính mời những vị ưu tư đến vận mệnh dân tộc trong hiện
tình sắp sửa bị Hán hóa hãy cộng tác với chúng tôi để chúng ta có thể phác họa được
một lộ trình thoát hiểm kẻo trễ quá rồi. Xin quý vị liên lạc với Ban Giảng sư
qua e-mail:buungocson@sky.com
Ngoài ra cũng xin quý
vị tiếp tay mời gọi kẻ sỹ tham gia vào công tác giáo dục dài hạn này, đừng để bị
hụt hẫng khi Việt Cộng ra đi để lại cho dân tộc rất nhiều thảm họa có thể đưa đến
sự tiêu vong.
Bây giờ mới sửa soạn
thì đã là quá trễ rồi đấy.
Kính
báo,
Ban
Học Vụ kính mời
THUYẾT TRÌNH (gợi ý)
Kính thưa quý vị,
Ai cũng biết là đời sống
của con người quá ngắn ngủi so với đời sống của một dân tộc.
●
Khi ta sinh ra thì dân tộc đã có rồi. Bối
cảnh lịch sử hiện tại đã được an bài do dòng lịch sử đã qua tạo ra, mà người ta
có thói quen gọi là định mệnh. Ðịnh mệnh là sự ù lỳ của học thuyết Thiên Mệnh
do ông Khổng Tử bịa ra. Học thuyết này đúng ở thời kỳ khoa học chưa giải thích được
những hiện tượng thiên nhiên; nhưng nay thì thuyết Thiên Mệnh hoàn toàn ngụy biện.
●
Khi ta trưởng thành thì chính thế hệ đương
thời có bổn phận và có khả năng thay đổi lịch sử hiện tại để xoay chuyển lịch sử
tương lai theo ý mình mong muốn.
Ðôi
khi việc làm của một người có thể làm thay đổi vận mạng nhân loại trong tương
lai mà không nhất thiết người đó phải nắm quyền.
Tỷ dụ: Lời khuyên của
ông Nguyễn Phi Khanh với con là Nguyễn Trãi đã cứu nguy dân Việt; hay học
thuyêt Karl Marx đã làm nhân loại điêu linh mà dân Việt phải chịu hậu quả cho đến
ngày hôm nay mà chưa hết; nếu không biêt đường thoát thì sẽ tiêu vong luôn..
Tóm
lại: Lịch sử quá khứ là nguyên nhân sinh ra lịch sử
hiện tại; và lịch sử hiện tại lại là nguyên nhân tạo ra lịch sử tương lai. Tức
lịch sử hiện tại là thành quả của lịch sử quá khứ, thế hệ hiện tại phải gánh chịu
những hậu quả do tiền nhân gây ra hay thụ hưởng những điều tốt do tiền nhân gây
dựng. Thế hệ hiện tại không thể thay đổi quá khứ để có cuộc sống tốt hơn; nhưng
họ có khả năng thay đổi lịch sử hiện đại để xoay chuyển lịch sử tương lai.
Vậy thì tham gia sinh
hoạt chánh trị là bổn phận của mọi người dân không chấp nhận dịch chủ tái nô. Ðối
với dân Việt trong bối cảnh phá sản về tổ chức xã hội cũng như về con người thì
sự tham gia sinh hoạt chánh trị là điều phải làm nếu chúng ta chưa muốn tiêu
vong vì nạn Hán hóa.
Trăm
hay không bằng tay quen. Ðừng nói tôi không làm chánh trị hoặc
tôi không thích chánh trị mà phải tự hỏi là: Ta có phải là người ăn bám xã hội
hay không? Nếu không thì ta phải góp phần mình vào sinh hoạt chung của ít nhất
là cộng đồng mà ta đang sống (không phân biệt quốc nội hay hải ngoại) để làm
cho cuộc sống của cộng đồng tốt hơn, hài hòa hơn, đó là nhiệm vụ của con nguời
có tinh thần tự trọng (Văn Lang có nghiã là tự trọng). Trong nước Văn Lang
không có người dốt, người lười, người ăn bám xã hội. Trong nước Văn Lang chỉ có
người Hào hoa, Phong nhã ; Phóng khoáng, Hào hiệp ; Lịch sự Bặt thiệp.
Bổn phận của 18 triều đại
Hùng Vương (2.879BC - 250BC) là phải hoàn tất công tác: Biến liên bang Việt gồm
18 Bộ Lạc thành nước Việt thuần chủng như
ngày hôm nay.
Bộ là vùng và Lạc là đời
sống an bình. Vì muốn hạ nhục dân bị trị nên Thực Dân Pháp gọi Bộ Lạc là Tribu.
Tribu đúng nghiã là Tù, có ông
Tù Trư ởng; còn Bộ Lạc có Lãnh Vương được phụ tá bởi Lạc Hầu
(quan văn) và Lạc Tướng (quan võ). Khi mất nước thì không có Lãnh Vướng nên
Lãnh Tụ kháng chiến gọi là Quân Vương, chữ Quân ở đây là binh lực khác với chữ
Quân là vua.
Muốn thay đổi lịch sử
hiện tại thì bắt buộc phải biết dự đoán bối cảnh tương lai sẽ như thế nào và
mình muốn có chỗ đứng nào trong lịch sử Toàn Cầu Hóa sắp tới? Ăn bám nhân loại
hay đưa ra một mô hình xã hội để nhân loại sống trong hài hòa?
Muốn đóng góp cho nhân
loại có an bình thì ít nhân dân Việt phải có đất, có quyền tự chủ, có xã hội
hài hòa giữa các sắc tộc với nhau thì mới đem chuông đi đấm nước người được.
Còn xã hội bê bối như ngày hôm nay : Xuất cảng lao nô đĩ điếm trộm cướp thì chỉ
mang cái nhục cho dòng dõi Rồng Tiên.
Muốn đưa ra đề án canh
tân con người và đất nước thì phải biết rõ nguyên nhân suy thoái thì mới biết đường
thay đổi lịch sử hiện đại; như vậy là bắt buộc chúng ta phải biết rõ lịch sử
quá khứ:
➢ Tổ tiên chúng ta từng
giữ được quyền tự chủ để phát triển con người và đất nước, vậy tại sao ngày hôm
nay chúng ta hư đốn như vầy?
Tóm lại là ta phải nắm
vững lịch sử quá khứ thì mới thay đổi được lịch sử hiện tại mà chúng ta có thể
làm được.
Ngoài ra chúng ta còn
phải biết dự đoán lịch sử tương lai gần và xa thì mới biết thay đổi lịch sử hiện
tại theo chiều hướng nào cho tốt nhất.
➢
Ðó là con đường phải đi nếu muốn sánh vai
cùng người.
Không nói thì ai cũng
biết là:
➢
Ý chí phát sinh hành động; nhưng Tư tưởng
lãnh đạo hành động.
➢
Tư Tưởng lạc hướng thì nguy hiểm khôn lường.
Tưởng là giúp dân cứu nước mà hóa ra là hành dân, bán nước cầu vinh
➢
Nhiệt
Tình + U Tối = Phá Hoại
Vậy
thì:
Thế hệ chúng ta có lạc
hồn dân Việt nên mới ra nông nỗi này.
●
Vì muốn khôi phục hồn Việt nên trong thời
nô lệ Pháp với chánh sách ngu dân thì các cụ nhà ta vẫn làm thơ "CHIÊU HỒN
DÂN VIỆT" như Phong trào Ðông Du, Trường Ðông Kinh Nghĩa Thục, cụ Phan B ội Châu, Phan Chu Trinh , Phan Văn Tư ờng, Nguyễn Thế
Truyền..... mà bút tích còn đó.
Coi lại những sách
giáo khoa dưới thời nô lệ Pháp hay Việt Cộng ngày hôm nay thì chúng ta chỉ thấy
dạy tư duy nô dịch mẫu quốc (Pháp, Nga hay Tàu).
Còn muốn xây dựng tư
duy độc lập như Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thì bị ngoại bang sát hại chỉ vì họ
không sai khiến được ta.
Nhìn
sơ lược vấn đề tự chủ thì chúng ta thấy ngay NHU CẦU CANH TÂN TƯ tưởng là việc
phải làm cấp bách thì mới có thể phá bung được những mắt xích nó đưa ta vào mê
hồn trận dịch chủ tái nô.
Còn Canh Tân bằng phương
tiện nào, theo chiều hướng nào và tới đâu thì đủ là đề tài cần phải thảo luận để
cho con đường đi được sáng tỏ. Ðời người rất ngắn ngủi mà việc Canh Tân thì lâu
dài qua nhiều thế hệ nên thiết nghĩ là chúng ta hãy phác họa một lộ trình để tiến
tới tương lai mong muốn để thế hệ sau còn biết đường nối tiếp. Lẽ dĩ nhiên đường
đi gặp nhiểu chông gai; nhưng cản trở ở đâu thi thế hệ ở đó phải dẹp bỏ thì mới
dành lại được tự chủ để tiếp tục tiến.
Như vật cản bước tiến
của thế hệ chúng ta là đảng Việt Cộng với đường lối nô dịch ngoại bang từ Tư Tưởng
cho đến kinh tế kỹ thuật nên chúng ta phải tìm cách dẹp bỏ chúng.
Chúng ta dẹp chúng
không phải vì hận thù mà là vì chúng cản bước tiến của dân tộc trong khi thế giới
đang tiến nhanh vù vù mà dân ta lại đi thụt lùi. Chứng cớ là: Tư do ngôn luận
ngày hôm nay còn bêt bát hơn thời Thực dân Pháp cách đây hơn 100 năm, mà cứ cái
đà này thì không tiêu vong sao được?
✧
NGUYÊN LÝ VẬN HÀNH LỊCH SỬ
Muốn thay đổi lịch sử
hiện tại để xoay chuyển lịch sử tương lai cho con cháu được nhờ thì chúng ta sẽ
cùng nhau thảo luận 4 phần sau đây cho ra nhẽ rồi mới đề ra được chương trình
canh tân tư tưởng, nó là nguyên nhân chính của mọi sự canh tân cho hợp thời:
1.
Những nguyên nhân đưa đến thảm họa ngày
hôm nay.
2.
Khai dụng vị thế nước Việt trong tranh chấp
toàn cầu.
3.
Ðịnh rõ mục tiêu của lịch sử tương lai
4.
Canh Tân Tư Tưởng sao cho hợp thời.
Ðể tránh lãng phí thời
gian nên thiết nghĩ là chúng ta cũng nên định cho rõ nghĩa những danh từ sau đây
sẽ được lập đi lập lại trong bài này.
Vậy thì:
TƯ TƯỞNG LÀ GÌ?
...... Tư Tưởng là SUY NGHĨ.
Nghĩa là suy nghĩ cho
chín chắn rồi đưa ra đề án giải quyết vấn nạn đương thời. Nếu đề án có giái trị
ổn định xã hội thì gọi là học thuyết, người đẻ ra nó thì gọi là triết gia. Các
chánh trị gia muốn tôn sùng thì gọi là Chủ Thuyết hay Minh Thuyết.
TƯ TƯỞNG có từ bao giờ?
..... Tiếng nói dùng để
diễn tả tư tưởng, vậy thì tư tưởng nhen nhúm phát sinh từ ngày con người có cuộc
sống quần cư, sớm lắm là 13.000BC. Tức là từ ngày có nông nghiệp hay du mục.
Tư Tưởng bắt đầu nảy
sinh cách đây vào khoảng 15.000 năm
TƯ
DUY LÀ GÌ?
..... Tư Duy là SUY LUẬN.
Nghĩa là luận vần đề
cho chín chắn rồi đưa ra kết luận. Ðây là yếu tốt cần phải có thì tư tưởng mới đẻ
ra được đề án giải quyết vấn đề.
TRIẾT LÀ GÌ?.....
Triết học là môn học về sự vận hành vạn vật.
Tức nguyên nhân này nằm
trong môi trường này thì sẽ sinh ra thành quả kia.
Triết là cái vốn cần
phải có thì Triết gia mới sáng tạo ra được đề án hay học thuyết để ổn định xã hội
theo một chiều hướng nào đó như: Dân Chủ, Quân Chủ hay Quân Phiệt; mỗi thể chế
lại có nhiều phương thức khác nhau.
Tỷ
dụ:
-
Công Sản là một chế độ quân phiệt toàn trị,
bao vây kinh tế và kiểm soát tư tưởng người dân.
-
Học thuyết Rồng Tiên là một chế độ Dân Chủ
Phân Quyền.
-
Chế độ Tản Quyền dưới thời nhà Chu là một
chế độ Phong Kiến; chia ra để trị bởi các lãnh chúa với 5 danh xưng Công; Hầu;
Bá; Tử; Khanh.
●
Các ông Lãnh Chúa lại theo chế
độ gia truyền theo mình chọn.
●
Phong là ban cho, Kiến là nhìn. Phong kiến
là nhìn theo chức tước mà cấp cho một lãnh thổ lớn hay nhỏ để toàn quyền cai trị.
Chế độ Phong Kiến không phải là chế độ Quân Chủ.
-
Chế độ Lãnh Chúa ở Âu Châu không phải là
chế độ Quân Chủ mà là chế độ Gia Chủ với quan niệm chủ và tớ là: Ðất của Chúa,
lúa của trời. Người dân chỉ là những tên tá điền ưng thì ở còn dở thì đi kiếm
ông Chúa khác mà nương tựa.
-
Chế độ nhà Trần là một chế độ Quân Chủ Ðại
Nghị với quan niệm Toàn Dân Giữ Nước chứ không phải triều đình giữ nước.
Mỗi chế độ lại phù hợp
với tình trạng dân trí và bối cảnh lịch sử đương thời thì mới tồn tại được. Do đó
nếu ta biết cách tác động để thay đổi não trạng người dân hay bọn bạo chúa, hoặc
thay đổi hoàn cảnh lịch sử thì ta sẽ thay đổi được chế độ đó bằng diễn biến hòa
bình hay bằng bạo lực là tùy cách thay đổi.
SỨC MẠNH CỦA VĂN HÓA
Văn
Hóa là gì? Văn là đẹp, còn Hóa là chữ tắt của
Phong-hóa.
Phong là gió, và cũng
là cách ăn ở của con người;
Hóa là biến đổi. Vậy thì Văn Hóa là sự biến đổi cách ăn ở sao cho hợp thời nhưng
phải đẹp đẽ.
Tỷ
dụ: Làm lớn, đi xe công vụ có tài xế lái mà lại mặc
quần xà-lỏn đi chân đất như cán bộ 30 trong ngày tiếp thu Saigon năm xưa
(30/4/75) nên gọi là bọn Cán Ngố, sâu bọ lên làm người.
Vậy thì: Văn hóa là nếp
sống của một tập thể mà ta gọi là cộng đồng, chủng tộc, dân tộc hay nhân loại.
➢
Nếp sống gồm 2 loại vật chât và tinh thần.
Do đó văn hóa là chất
liệu kết hợp toàn dân, vì thế nên việc đầu tiên phải làm của kẻ thống trị là
tìm mọi cách để hủy diệt văn hóa của sắc dân bị trị để làm xã hội tan rã mạnh
ai nấy sống.
➢ Nghiệm lại câu chuyện bó đũa của tổ tiên chúng
ta thì thấy thật là thâm thúy.
Vậy thì việc làm khẩn
thiết của dân bị trị như chúng ta ngày hôm nay là phải cố gắng phát huy những
nét đặc thù và hợp thời của nền minh triết Việt: Khí phách Rồng Tiên, Văn Hóa Lạc
Hồng để góp phần đem an bình đến cho nhân loại trong thế toàn cầu hóa.
VĂN MINH
Văn
minh là gì?.... Văn minh là sự sáng tạo ra đồ dùng để cải
thiện cuộc sống.
Văn
minh bắt nguồn từ đâu?..... Sự khởi điểm của nền văn minh nhân loại
là biết cách dùng lửa để thui thú đặng để dành cho khỏi thối và sau đó là sáng
tạo ra đồ gốm (tức đồ đất nung phát triển và tồn tại cho tới ngày hôm nay như
bát đĩa, răng giả bằng sành, gạch ngói....)
Tác động dây chuyền của
Văn Minh:
Nhờ có văn minh nên
loài người mới có cuộc sống quần cư.
-
Cuộc sống quần cư đẻ ra nền Văn Hóa.
-
Văn minh tiến bộ thì loài người có nhu cầu
đẻ ra quốc gia để đi xâm lăng hay tự vệ. Tổ chức xã hội gia tăng, phân công từng
nhóm chuyên nghiệp nên bắt buộc phải đẻ ra Văn Hiến.
-
Bản Văn Hiến cần phải viết cho gãy gọn
nên có nhu cầu đẻ ra Văn Học và Văn Học sinh ra Văn Chương. Văn Chương đòi hỏi
giấy bút.
Văn
Hiến là bản văn quy định trách nhiệm; bổn phận và
quyền hạn của mọi thành viên trong một nước, phúc cùng hưởng mà họa cùng chịu.
Ngày hôm nay chúng ta gọi là Hiến Pháp (Pháp có nghĩa là phép tắc của một nước
mà mọi người phải theo). Văn Học là
cách sống thanh tao nho nhã của con người. Văn
Chương là một đoạn văn thanh tao không tục tĩu.
TÓM LƯỢC
TÁC ÐỘNG DÂY
CHUYỀN
Vì nhu cầu sinh sống
nên:
➢
Tinh thần cầu tiến đẻ ra văn minh.
➢
Văn minh đẻ ra văn hóa.
➢
Văn hóa đẻ ra văn hiến,
➢
Văn hiến đẻ ra Văn Học,
➢
Văn học đẻ ra Văn chương... Văn Chương cần
giấy bút
NGUYÊN
NHÂN THẢM HỌA.
Năm vừa qua chúng ta đã
học bài số 2.10b nói về nguyên nhân suy thoái tư duy để có thảm trạng ngày hôm
nay LINK: www.nhanvanviettoc.blogspot.com.
Ở đây chỉ xin nhắc lại
là suy thoái bắt đầu từ năm 1427 là năm ông Lê L ợi đăng quang Hoàng Ðế.
1.
Từ thời Hùng Vương (2.879BC) cho đến nhà
Hồ (1407), nhà vua cũng như người dân tất cả đều quan niệm rằng đất nước của
dân. Dân giữ nước chứ không phải triều đình giữ nước.
Bằng
chứng là lá cờ nước Việt có nền, trong khi đó cờ tây Phương không có nền, chỉ
vì họ quan niệm về lãnh thổ khác sự suy nghĩ cũa dân Việt.
Khuôn
khổ lá cờ tượng trưng cho lãnh thổ, còn nền Vàng của lá cờ tượng trưng cho chủ
nhân ông của lãnh thổ.
Dân
Việt lấy màu vàng của lụa tơ tầm làm sắc thái dân tộc nên ta mới thấy nhắc lá cờ
Vàng của nhị vị anh thư hay của bà Triệu. Sắc thái này đã ghi trong câu chuyện
100 trứng 100 con. Xin coi thêm bài số 2.01 Nguồn gốc lá cờ và bài Rồng Tiên
Khai Quốc số 06 trong link: www.nhanvanviettoc.blogspot.com
Vì
thế nên khi thay đổi nguyên thủ thì đất nước không bị xáo trộn. Và nhờ biết
cách khai dụng nền Văn Hóa vì dân nên Quốc Sư Nguyễn Trãi mới đưa ra Bình Ngô
Sách để ông Lê L ợi
áp dụng cho đến khi thâu hồi chủ quyền quốc gia vào năm 1427.
2.
Khi ông Lê L ợi lên đăng quang Hoàng Ðế thì vì trí óc hẹp
hòi, sợ văn thần chiếm đoạt quyền hành nên mới sát hại văn nhân và chỉ tin dùng
võ tướng đầu óc cũng giống ông.
Ðiểm
này ông Nguyễn Trãi đã biết trước khi cộng tác. Vì thế nên trong lúc xây dựng lực
lượng kháng chiến ông ta đã trương khẩu hiệu : Lê L ợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần để an lòng quân
và dân.
1.
Vì tin dùng võ tướng nên khi chết đi,
thái tử còn nhỏ thì cái bọn ngu trung trục lợi này mới tìm cách kéo bè kết cánh
để hãm hại nhau, tìm mọi thủ đoạn giết vua để cháu mình nối ngôi đặng còn nhiếp
chánh.
➢
Ðây là khởi điểm của tư tưởng chệch hướng
dân tộc, nó còn di hại cho tới ngày hôm nay: Quyền lợi dân tộc đứng sau
quyền lợi phe nhóm!
2.
Vì lạc hồn dân Việt nên văn hóa suy đồi
để bên trong thì rối loạn, bên ngoài thì giặc Chiêm tấn chiếm đến Nghệ An và
sắp vào Thanh Hóa quật mả vua Lê vứt đi. Do đó quần thần mới giết vua và thái
hậu rồi đón hoàng tử Tư Thành về làm vua.
3.
Hoàng Tử Tư Thành lên ngôi với miếu hiệu Lê Thánh Tôn (1460-1497)
với 2 niên hiệu là Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Ðức (1497).
Vì
nhu cầu độc tôn để đánh Chiêm nên Ngài đã thay đổi học thuật với phương châm
"Ðất của Chúa, lúa của Trời".
Do
đó con cháu mới nghĩ đất nước thuộc về dòng họ nhà Lê. Vì mắt quáng gà, tư
tưởng thiển cận nên mới dắt voi về dày mả tổ như Lê Chiêu Th ống để được làm
vua nô lệ cho thỏa chí báo thù dân tộc phản bội.
4.
Tư tưởng này đã truyền đến Gia Long, nên
ông ta đã hiến dâng tổ quốc cho Xiêm (Thái Lan) không xong thì lại mời Chủ Tây
đến thống trị. Bản giao ước Versailles còn đó, điều 3 đã nói rõ tư tưởng này.
5.
Lợi dụng văn hóa suy đồi, dân trí thấp
kém, tư tưởng vọng ngoại vả cơ cấu xã hội rệu rạo nên năm 1945 Hồ Chí Minh, một
tên không cha không mẹ, không tiểu sử nghiễm nghiêm lãnh đạo đất nước nước chủ
nghĩa Tam Vô (vô gia đình, vô tổ quốc và vô tông giáo) để tiến tới đại đồng thế
giới và tự ý xóa tan biên cương để biến nước ta thành một quận huyện của nước
Tàu. Ấy thế mà lại có người nhắm mắt đi theo để phá nước giết dân mà cứ ngỡ là
mình yêu nước thương dân!
Riêng
khẩu hiệu "Giai Cấp Ðấu Tranh" đã nói lên tinh thần anh em tàn sát
lẫn nhau cho ngoại bang hưởng.
Kết luận:
Thảm trạng ngày hôm
nay là do lạc hồn dân Việt nên mới có Tư Tưởng vọng ngoại và tư duy nô dịch nó
bắt nguồn từ đầu óc vị kỷ của đại vương
Lê L ợi, mặc dù Ngài có công rất nhiều đối với đất nước.
Nhưng những công trạng
đó không thể bù đắp được những thiệt hại do con cháu của Ngài gây ra. Ðất nước
của toàn dân nên người dân có quyền phê phán lịch sử để biết đường thoát hiểm.
Tuy nhiên từ năm 1427
đến nay (2015) đã có 3 phong trào phục hồi Tư Tưởng Việt bằng nhiều cách khác nhau
nhưng thất bại cũng chỉ vì đường lối học thuật của vua Lê Thánh Tôn là: Ðất của
Chúa, nên Việt Cộng mới ngang nhiên nói:
"Con người là
Công Cụ sản-xuất cho đảng hưởng".
1.
Hoàng Ðế Mạc Ðăng Dung đã cải tổ bằng
cách Ngoại Thương (hướng ra biển cả) để tìm hiểu thế giới bên ngoài. Chương
trình này bị thất bại vì khẩu hiệu Diệt Mạc Phù lê của hai con buôn chánh trị
là Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm.... Ðó là cái sai nhầm về đường lối giáo dục của
vua Lê Thánh Tôn.
1.
Hoàng Ðế Quang Trung đã chủ trương thay
đổi đường lối học thuật để phục hồi tư tưởng: "Toàn dân giữ nước" nên Ngài mới thành lập viện Sùng
Chính Học và chiêu đãi văn nhân, hiền tài như ông Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) và ông Ngô Thì Nhi ệm.
Nhưng
chương trình này đã bị Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long) phá tan với khẩu hiệu miệt
thị dân Việt là: "Nôm Na là Cha
Mách Qué".
Vì
tư tưởng đất nước là tài sản của họ Nguyễn Phúc nên Nguyễn Ánh mới quyết tâm
mời ngoại bang, hết Xiêm lại Pháp về phục thù, cầy cho nát giang sơn của tổ
tiên để lại với tư duy thiển cận là: Ăn không được thì phá cho hôi.
2.
Chiến lược gia Ngô Ðình Nhu đã thất bại
với phương án Tự Vệ là: Xây dựng ấp chiến lược với học thuật Cần Lao Nhân Vị để
Cộng Ðồng đồng tiến theo mô hình thời Hùng Vương, nhưng thất bại vì sự đánh phá
của Hồ Chí Minh; giống như Gia Long với Tây Sơn vậy.
Một bên thì Tổ Quốc
trên hết, một bên thì Xóa Tan biên cương loài người sống thân yêu. Hồ Chí Minh
đã quyết tâm biến mộng ước xóa bỏ biên cương để biến nước Việt nội thuộc thành
Tàu.
Ấy thế mà lại có nhiều
vị khoa bảng sẵn sàng chết để làm nô lệ cho Nga và Tàu mới buồn chứ!!!. Ðúng là
lạc hồn dân Việt chỉ vì họ không biết gì về văn hóa và tư tưởng Việt. Nay muốn
giải tỏa u-mê cho đám ngu trung này thì thiết nghĩ là không có gì tốt hơn là
chương trinh Nhân Văn Việt Tộc.
Ngày hôm nay chúng ta
có 2 khối người Việt Hải Ngoại và người Việt Quốc Nội, nhưng đất nước tan
hoang, cơ cấu xã hội băng rã, tư tưởng người dân bế tắc. Ðứng về phương diện tư
tưởng thì chúng ta phải làm gì và có thể làm được gì để cứu nguy dân tộc.
➢
Khối người Việt Hải Ngoại phải nghĩ gì và
phải làm gì để ăn cây nào thì rào vườn đó; đồng thời cũng phải uống nước nhớ
nguồn. Ðây là sứ giả đem lại hòa bình cho nhân loại, bắt đầu bằng sự đóng góp ý
kiến của mình để xây dựng cộng đồng hài hòa xung quanh.
➢
Khối người Việt Quốc Nội phải làm gì và
có thể làm được gì để giành quyền tự chủ thì mới canh tân được mọi thứ cho hợp
thời.
Ðó là 2 câu hỏi mà
chúng ta cùng nhau góp ý để cùng nhau thay đổi lịch sử hiện tại thì mới có lịch
sử tương lai tốt hơn.
Khai dụng vị thế đương thời.
Muốn tìm câu giải đáp
thì bắt buộc phải thảo luận về thế đứng của dân Việt và nước Việt trong sự
tranh chấp toàn cầu hiện tại.
Thế giới cần gì ở
chúng ta, và chúng ta có thể làm được gì để có lợi cho cả đôi bên?
✧
Ngày xưa chỉ có Việt
với Tàu, nước ta ở thế cô thế mà đã oanh liệt đánh bại chúng rất nhiều lần. Mỗi
lần một thế đánh khác nhau. Không phải ăn may mà là dân Việt đã biết khai dụng
sức mạnh Tâm Linh mà ta gọi là mưu lược chống Tàu.
Dân ta đã lấy yếu
thắng mạnh và đã để lại kinh nghiệm cho chúng ta như sau:
➢
Lời
đức thánh Trần: Lấy đoản binh thắng trường binh. Trên dưới một
lòng, toàn dân Sát Thát.
➢
Lời
Quốc Sư Nguyễn Trãi: Khai dụng văn hóa để dùng kế sách Công
Tâm, lấy chánh nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân (mưu lược) thắng bạo lực.
➢
Lời
Hoàng Ðế Quang Trung nói với Ngô Thì Nhiệm:
Chuyến
này ta kéo quân ra thì chỉ nội trong 7 ngày là quét xong đàn kiến. Nhưng chúng
là nước lớn sẽ thấy nhục và tiếp tục binh đao. Ta sợ gì chúng vì ta lấy đoản
binh tinh nhuệ chống với đại quân ô hợp; nhưng chiến tranh triền miên dân tình
khổ sở ta đâu nỡ.
Nay
phải dùng Văn Tài để chấm dứt chiến tranh, đợi 10 năm nữa khi ta xong việc canh
tân con người, canh tân đất nước, phục hồi khí phách Rồng Tiên và Văn Hóa Lạc
Hồng thì lúc đó ta sợ gì chúng. Việc này phi Thì Nhiệm thì không ai làm nổi.
Vậy khanh hãy lo soạn văn trong khi ta đánh, đánh xong thì áp dụng liền kẻo
trễ.
➢
Lời
than phiền của Tồng Thống Ngô Ðình Diệm:
Trong
thời gian nô lệ cơ cấu xã hội bị tan rã, tư tưởng lệch lạc cuộc sống quá chênh
lệch giữa vùng cao nguyên với vùng duyên hải. Kế sách Ấp Chiến Lược và học
thuyết Cần Lao Nhân Vị là phương thức tự vệ để xóa bỏ giặc chậm tiến, xây dựng
Cộng Ðồng đồng tiến thì lúc đó không cần sự yểm trợ của Mỹ nữa......
Nhưng
tiếc thay nhân tài như lá múa thu nên đến các ông Bộ Trưởng còn chưa thông suốt
thì làm sao có thể thi hành được? Trông vào đoàn cán bộ Nông Thôn thì phải có
thời gian rèn luyện qua thực tập.
Ðó là những khó khăn
nội tại và ngoại cảnh mà chúng ta phải vượt qua.
✧
Ngày trước bọn Bắc Kinh
lấy thịt đè người, lịch sử vừa qua Bắc Kinh đã khai dụng được sự xung khắc của
2 khối chạy đua vũ khí trong cái mà người ta gọi là chiến tranh lạnh trên toàn
thế giới nhưng nó lại cực kỳ nóng bỏng trên quê hương chúng ta.
Ngày nay vị thế chiến
lược toàn cầu đã chuyển hướng quay về vấn đề khống chế sự bành trướng hung hăng
của Bắc Kinh mà nước Việt lại giữ vị thế chiến lược toàn cầu. Chúng ta là lá
chắn mà thế giới đang cần, vậy chúng ta lợi dụng được gì để bảo vệ tự chủ thì
mới canh tân được mọi thứ?
Nhìn trên bản đồ thì: Hoa L ục không có lối đi ra Thái
Bình Dương, vì thế nên Bắc Kinh gây chiến để chiến hạm của chúng có thể di
chuyển trên khắp thế giới với mục đích làm bá chủ thế giới với thể chế quân
phiệt toàn trị: One World, one China. Ðó là mộng bá vương của đế quốc với não
trạng Trung Tâm Tinh
Hoa của vũ trụ (Trung Hoa ).
Vậy thì thế giới có
chịu để Bắc Kinh thống trị hay không? Lẽ dĩ nhiên là không rồi,vậy thì thế trận
ra sao và nước Việt khai dụng được gì?
Ðó là điều chúng ta
phải thảo luận rốt ráo với cái nhìn hết sức khách quan, bình tĩnh thì mới tìm
ra lối thoát được.
✧
ÐỊA THẾ
CHIẾN LƯỢC TOÀN
CẦU
Phía nam quay mặt ra
Nam Hải thì bị chặn lại bởi Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa, rổi đến Mã Lai; Nam
Dương Qu ần Ðảo,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam.
Ðó là vòng đai ngăn
chặn sự hung hăng của Bắc Kinh đe dọa nền hòa bình của nhân loại. Suy ra thì
Bắc Kinh không dám dùng võ lực để chiếm Việt Nam; nhưng Việt Cộng lại là tay
sai của chúng.
Vậy muốn làm liên minh
vòng đai an toàn thì phải lật đổ bọn Tà Quyền Việt Cộng để giành lại quyền tự
chủ thì mới có thể nói chuyện liên minh với các nước trong vùng và đòi hỏi sự
viện trợ quốc tế được.
Sở dĩ gọi Việt Cộng là
Tà Quyền vì Hồ Chí Minh là cái tên giả, không cha không mẹ và không tiểu sử nên
khi xem giỏ bỏ thóc thì không ai tín nhiệm hắn cả.
Hơn nữa từ ngày hắn
cầm quyền (02/9/1945) bằng sự lưu manh đến nay thì không những hắn không làm lễ
nhậm chức mà ngay cả các tà quyền kế thừa cũng chẳng ai làm lễ nhậm chức cả.
Chúng có hứa hẹn gì với dân với nước đâu mà chúng ta đòi chúng phải yêu nước
thương dân?
Xét
vậy thì:
Hỡi các đảng viên Việt
Cộng! Nhất là những lực lượng võ trang đừng bắn vào dân, hãy tức tỉnh, đừng mê
muội với khẩu hiệu: "Còn đảng còn mình".
Ai trả lương cho các
bạn, nếu không phải là tiền của nhân dân, của đất nước; có ai nuôi chó phản chủ
đâu. Hãy thức tỉnh và quay về với dân tộc đi, đừng tự hủy diệt tương lai của
chính con cháu các bạn.
Hãy coi con cháu Gia
Long như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân; khi nước mất thì cũng đi tù mút mùa như
mọi người vậy. Chỉ như chỉ tên sống trên xương máu đồng bào mà không biết nhục
như: Ðồng Khánh (2 nước cùng vui), Khải Ðịnh mới nộp đơn xin chức vua bù nhìn.
Ghi
chú:
Chữ Dương chỉ biển
lớn, chữ Hải chỉ biển nhỏ. Chữ Hà chỉ sông dữ, chữ Giang chỉ sông hiền.
Mục tiêu của lịch sử tương lai
Mỗi người trong chúng
ta đều mong ước tương lai dân Việt một cách mung lung; nhưng tựu chung là muốn
dân Việt tồn tại trong thế bình đẳng với người. Không chấp nhận nô lệ bắt cứ
một ai.
Sở dĩ người Mỹ, Pháp,
Ðức, Nhật đi đâu cũng được người ta cũng kính nể mặc dù trong bụng không ưa;
chỉ vì dân họ phần lớn đều là những người đàng hoàng có tấm lòng nhân nghĩa.
Dân Việt cũng là người , vậy tại sao chúng ta lại chịu thua kém họ? Ði đâu cũng bị khinh rẻ; chỉ vì phần lớn dân ta thiếu nhân cách làm người, tức là thiếu tinh thần tự trọng và cầu tiến.
Dân Việt cũng là người , vậy tại sao chúng ta lại chịu thua kém họ? Ði đâu cũng bị khinh rẻ; chỉ vì phần lớn dân ta thiếu nhân cách làm người, tức là thiếu tinh thần tự trọng và cầu tiến.
Tóm
lại:
Chúng ta mơ ước có một
đất nước ở đó người dân làm chủ vận mệnh của mình. Ở đó phần lớn người dân đều
có khí phách Rồng Tiên và Văn Hóa Lạc Hồng để đi đâu ai ai cũng kiêng nể mặc dù
nước kém mở mang, dân chúng nghèo nàn nhưng không lạc hậu.
Chúng ta còn mơ ước
cộng đồng người Việt Hải Ngoại, dù mang bất cứ quốc tịch nào cũng hãy
"Uống nước nhớ nguồn" đừng phản bội tổ tiên khước từ gốc gác của
mình. Hãy cố gắng làm tròn nghĩa vụ người xưa trao phó là:
Bốn Bể Năm Châu Oai Danh Lạc Việt
Ngàn Năm Muôn Thuở Nức Tiếng Tiên Long.
Ðó là hoài bão của
chúng ta, cần nhiếu thế hệ có ý chí và nghị lực mới thành được; và lúc đó ngưòi
Việt xứng danh là sứ giả hòa bình của nhân loại. Hãy cố gắng lên đồng bào ơi!
Với tinh thần cầu tiến thì mọi chông gai sẽ vượt qua.
Vấn đề Canh Tân Tư Tưởng
Canh tân tư tưởng để
làm gì?
Câu trả lời là: Canh tân Tư Tưởng để được sống còn trong
cộng đồng nhân loại.
Như
trên đã phân tích: Con người có khả năng làm thay đổi lịch sử hiện tại để xoay
chuyển lịch sử tương lai tốt hơn.
Tuy
Ý Chí phát sinh hành động, nhưng Tư Tưởng lãnh đạo hành động. Tư tưởng mà sai
nhầm thì sai một ly đi một dặm. Do đó phải canh tân tư tưởng cho hợp thời, tức
canh tân ra sao để cho phù hợp với thế giới toàn cầu hóa này thì mới hy vọng
tồn tại được.
Còn
Tư Tưởng lỗi thời hay hủ lậu thì chỉ có đợi chờ chết mà thôi. Lý do dể hiểu là
ở thời đại văn minh điện toán này mà ta lại mù chữ thì làm sao sống nổi mà
không cần người che chở, bảo hộ?
Ðó
là luật đào thải thiên nhiên, không nên nhắm mắt như Ðà Ðiểu rúc đầu vào cát
khi gặp nguy biến.
✧
TỔNG LUẬN
Ý chí phát sinh hành
động, nhưng tư tưởng lãnh đạo hành động. Do đó phàm làm việc lớn cho đất nước
thì luôn luôn phải canh tân tư tưởng,
thay đổi tư duy theo nhu cầu của mục tiêu trong môi trường sinh sống đương
thời.
Giống như chiếc xe hơi
phải luôn luôn cải tiến theo nhu cầu hiện đại để cạnh tranh với các hãng khác,
còn không thì nhà máy đóng cửa, nhân công chết đói. Một nước cũng thế.
Hiện nay xã hội Việt
đã hoàn toàn tan rã, dân Việt chưa hội đủ yếu tố để kết hợp nên cứ đi trong mê
hồn trận: Dịch chủ tái nô vì tư duy nô dịch, tư tưởng lạc hậu mà không hay.
Tư tưởng lạc hướng bắt
đầu bằng nền giáo dục đất của chúa lúa của trời thay vì toàn dân giữ nước có từ
thời Hùng Vương (2.879BC) tới 1427AD. Vì thế nên khẩu hiệu Diệt Mạc Phù Lê mới
có khả năng đánh lừa toàn dân chết cho một nhóm con buôn chánh trị là Trịnh
Kiểm và Nguyễn Kim khởi xướng.
Nhìn lại thì ngày hôm
nay dân ta cũng đang rơi vào tình trạng này: Sẵn sàng chết cho chủ nghĩa Tam Vô
được đề xướng bởi Việt Cộng. Vì thế nên anh em mới đâm chém nhau để xóa tan
biên cương sát nhập nước Việt vào nước Tàu dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh..... Có
mù cũng nhìn thấy tương lai bi đát của dân tộc đang tiến mau, tiến mạnh để lên
Thiên Ðàng Mù!
Nay muốn thoát ra để
ngửa mặt nhìn đời, sánh vai cùng nhân loại thì chỉ còn cách lợi dụng vị thế
chiến lược toàn cầu của mình để cầu viện thế giới hỗ trợ cho thế lá chắn của
dân Việt; từ đó mới có tự chủ để vươn lên bằng người được.
➢
Ðó là điều kiện duy nhất mà chúng ta có
để thoát hiểm họa tiêu vong.
Nhưng muốn thế giới
trợ giúp thì chính chúng ta phải chứng minh là mình có khả năng làm lá chắn
chống sự bành trướng của Bắc Kinh, đây không phải là đu giây; vì đu giây thì
trước sau chi cũng lại dịch chủ tái nô, mà đây là sự thông minh của dân Việt
biết cách khai dụng vị thế để trao đổi nhu cầu hỗ tương.
➢
Vậy thì chúng ta phải làm gì để nhận được
viện trợ có lợi cho cả đôi bên?
✧
1.
Trước hết chúng ta phải thay đổi não
trạng, can đảm nhìn nhận những khiếm khuyết đã đưa đến thảm trạng ngày hôm nay.
Ðó là nhu cầu Canh Tân Tư Tưởng
2.
Thứ đến là phải đề ra một mô hình tổ chức
xã hội cho hợp với thế nước lòng dân thì mới có phương tiện tiến tới mục tiêu
bằng những đòi hỏi tối thiểu như sau:
a.
Người dân không phải lo kinh tế thì mới
có thì giờ tham gia sinh hoạt cộng đồng nó mang lại ích lợi trực tếp cho đời
sống của họ.
b.
Xây dựng cuộc sống hài hòa trong cộng
đồng.
Mô hình trước kia là
xây dựng làng xóm để tạo cuộc sống hài hòa hàng xóm với nhau, để mọi người thấy
việc xã hội là bổn phận của chính mình. Ðây là tạo thói quen tham gia hoạt động
chánh trị của xóm làng đến đất nước và nhân loại. Còn việc điều hành công việc
xã hội của xóm làng thì thay đổi tuy theo não trạn của người dân, do đó Canh
Tân Tư Tưởng cho hợp thời là một nhu cầu cần thiết.
Ngày hôm nay cơ cấu xã
hội có thay đổi nên mô hình và cách điều hành cũng phải thay đổi cho hợp thời.
Ngày hôm nay dân Việt
có 2 cộng đồng là: Hải Ngoại và Quốc Nội vậy thì bổn phận của mỗi cộng đồng ra
sao?
Trước hết 2 cộng đồng
này có cùng một nguồn con cháu Lạc Long nên phải hỗ trợ lẫn nhau. Sau đến là
mỗi Cộng Ðồng sinh sống ở các môi trường khác nhau nên sinh hoạt phải khác
nhau.
➢
Vậy thì tổ chức và sinh hoạt ra sao để
đáp ứng nhu cầu hiện tại?
✧
Sau đây chỉ là một sự
gợi ý, xin quý vị đóng góp ý kiến cho đề tài Canh Tân Tư Tưởng được phong phú.
Về cộng đồng Hải Ngoại
Cộng đồng hải ngoại có
2 nhiệm vụ là ăn cây nào thì rào vườn đó, và uống nước thì nhớ đến nguồn.
Tuy rằng mình mang
quốc tịch khác và có bổn phận phải góp phần bảo vệ quê hương mình đang sống bằng
cách đóng góp nếp sống hài hòa và thanh lịch của người Việt để tạo cuộc sống
hài hòa với hàng xóm, đó gọi là hội
nhập bình đẳng về văn hóa với xã hội tiếp cư.
Tỷ dụ như:
-
Cách xưng hô, lễ phép trong cách giao tế
của dân Việt.
-
Cách làm sáng tỏ nếp sống tâm linh hài
hòa, nhân hậu của dân Việt cách tự học để thấm nhuần đặc thù về văn hóa, lịch
sử cùng tư tưởng Việt đặng khi có dịp thì trao đổi để đóng góp cách sống hài
hòa với lân bang hàng xóm của mình.
Nhất
là để chứng minh rằng dân Việt không phải là loại ăn bám xã hội tếp cư..... Hãy
làm như bà Dương Nguy ệt
Ánh (khoa học gia) đã khẳng định trước toàn dân nước Mỹ trong buổi lễ gắn Huy
Chương, và nhiều trường hợp khác như Phó Thủ Tướng nước Ðức xuất thân từ một
cậu bé mồ côi trong cô nhi viện ở Việt Nam..
Muốn am tường nền văn
hóa, lịch sử và tư tưởng Việt thì cũng phải cùng nhau học hỏi, trau dồi kiến
thức.
Do
đó việc tổ chức các hội đoàn lành mạnh ở trong và ngoài nước là một nhu cầu cấp
bách; và phải có sinh hoạt hàng tuần, ít nhất là vào cuối tuần.
Tỷ dụ:
1.
Thành lập nơi giữ trẻ và nơi giáo dục
thiếu nhi và thiếu niên cùng với chương trình phục hồi nhân phẩm rõ ràng và
theo đúng lịch trình dự trù thì phụ huynh hay thanh niên tham gia mới tin
tưởng.
Lẽ
dĩ nhiên là phải tuyển người đầy đủ tư cách và kiến thức lãnh phần giáo dục.
Không được dạy ẩu với kiến thức khập khễnh lấy từ tài liệu lỗi thời; vì chính
các tài liệu này đã dào tạo thế hệ làm mất nước nên không nên theo. Phải sáng
tạo ra chương trình giáo dục cần cho nhu cầu ngày hôm nay.
2.
Phụ huynh có thể gửi các em từ 16 tuổi
trở xuống trọn ngày để an tâm lo việc khác. Ở trong đó các em được chia thành
từng lứa tuổi sinh hoạt với nhau dưới sự dạy dỗ của Thày và Cô. Các em còn quá
bé thì phải có người trông nom chu đáo.
3.
Người trông nom trẻ và Thày Cô phải có
lương tương đương với công sức của họ. Tổ chức cũng phải có tiền thì mới tiếp
tục sinh hoạt được.
4.
Tuy đây là việc làm vì nghĩa, nhưng có
thực mới vực được đạo.
Do
đó sự đóng góp tài chánh của các phụ huynh gửi trẻ là việc làm phải có; và cũng
là nhiệm vụ tương trợ cho nền giáo dục huấn luyện người Việt tốt, biết sống cho
mình và sống cho xã hội đã cưu mang mình.
Còn chuyện đóng góp
của hội viên hay sinh hoạt gây quỹ không liên hệ chi tới sinh hoạt giáo dục này
cả.
Ðây không những là
trồng cây theo chương trình Việt Giáo mà còn là một cách đền ơn, trả nghĩa xã
hội đã cưu mang mình. Làm được như vậy thì chúng ta mới xứng đáng là sứ giả hòa
bình cho nhân loại.
Về cộng đồng Quốc Nội
1.
Trước hết là phải nhìn nhận thân phận hẩm
hiu của mình dưới một chế độ Việt Cộng quyết tâm tàn phá tận gốc mọi sinh hoạt
của tổ tiên đã vun trồng từ thời Hùng Vương (2.879BC) tới nay.
2.
Thứ đến là quyết tâm phục hồi khí phách
Rồng Tiên và Văn Hóa Lạc Hồng.
Như vậy thì trước tiên
phải phá bung xiềng xích nô lệ từ tư duy cho đến bao tử để phục hồi lại nhân
phẩm và sức sống của dân Việt.
➢
Tại sao chúng ta lại không đi theo sự chỉ
dẫn của trí tuệ của con Rồng cháu Tiên mà lại phải nhờ các xác chết dẫn đường
chỉ lối như Mác, Lê, Mao? Bộ không có mấy tên này thì tổ tiên chúng ta không
biết sống hay sao?
Muốn như vậy thì cách
tốt nhất là thay đổi não trạng, tức canh tân tư tưởng và thay đổi tư duy thì
mới có thể xây dựng được Việt Ðạo và Việt Triết một cách đến nơi đến chốn.
a.
Song song với việc lật đổ Tà Quyền Việt
Cộng, giành lại Tư Chủ thì việc Canh Tân Tư Tưởng bằng cách khai dụng thông tin
hiện đại nằm trong tầm tay của người dân trong nước; chỉ cần có ý chí thăng
tiến và nghị lực quyết tâm là làm được những điều mong muốn tối thiểu này.
b.
Liên kết với đồng bào Hải Ngoại để lập
phòng tuyến liên minh đòi quyền sống; lẽ dĩ nhiên cũng phải tự mình làm ngoại
vận để dư luận và chánh khách thế giới lên tiếng hỗ trợ.
c.
Thành lập những tổ chức hoạt động dân sự
ngoài luồng để tập luyện cách điều hành công việc xã hội. Một cá nhân dù siêu
quần xuất chúng đến đâu cũng không thể tự mình làm thay đổi được lịch sử hiện
tại; nhưng khi các tổ chức ngoài luồng liên kêt với nhau, kẻ xướng nguời họa,
kẻ tung người hứng thì chắc chắn sẽ làm sụp đổ Tà Quyển, thay đổi lịch sử hiện
tại một cách ôn hòa.
Ðây
là kế sách Công Tâm của Quốc Sư Nguyễn Trãi mà nay ta gọi là đấu tranh bất bạo
động, hay diễn biến hòa bình không đổ máu..
Ðó chỉ là những góp ý
nho nhỏ của soạn giả, vì thế nên chúng ta mới cần những buổi hội luận để tìm
cách thoát hiểm tiêu vong cho dân tộc mà sự đóng góp của mọi người rất là cần
thiết, dù đây là chỉ trên lý thuyết nhưng nó rất quý cho người áp dụng tiết
kiệm được thì giờ nghiên cứu thì thành công sẽ nhanh và chăc chắn hơn là không
ai góp ý.
Lời than của quốc sư
Nguyễn Trãi:
Tuấn-kiệt
như sao buổi sớm,
Nhân-tài
như lá mùa thu.
Việc
bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,
Nơi
duy-ác hiếm người bàn-bạc.
Ðó là trường hợp của
chúng ta ngày hôm nay đấy!
Xin chân thành đa tạ
quý vị đã lắng nghe, nay Ban Học Vụ xin được lắng nghe những đóng góp xây dựng
của quý vị trong diễn đàn.
----------------------------
THAM LUẬN
(đọc thêm)
Phần
I: Những điều cần biết.
Phần
II: Lịch sử nhân loại nên biết.
Phần
III : Lối thoát của dân Viêt.
PHẦN I : Những điều cần biết
Nhận
xét khái quát:
Tổng Thống NIXON đắc
cử với nhiệm vụ rút quân ra khỏi bãi lầy chiến địa Việt Nam do Tổng Thống
Johnson 1963-1968 (Lyndon Baines) để lại sau tết Mậu Thân 1968 càng sớm càng
tốt.
Trong thực tế thì Tổng
Thống Johnson, kế vị Tổng Thống John Fitzgerald Kennedy (1960-1963) bị ám sát ở
Dallas (22/11/63 ?). Ông Johnson chủ trương giữ thế thủ cho kỹ trên chiến
trường Việt Nam để đánh bại Nga Sô bằng kế sách Ấp Chiến Lược, hát lâu chầu mỏi
thì khối Nga Sô tự động tan hàng rã ngũ. Trong khi đó thì ông Kennedy chủ
trương dùng vũ khí hiện đại để phá thế lưỡng cực; vì thế nên ông Jognson không
đủ khả năng tiếp nối kế sách thắng Cộng bằng cuộc chạy đua vũ khí trên chiến
trường nam Việt Nam.
Hơn nữa ông Phó T ổng Thống Johnson
không đồng ý với ông Tổng Thống Kennedy trong sách lược chống Nga Sô. Ông
Johnson thì chủ chương thủ cho kỹ; còn ông Kennedy thì chủ chương đánh mau đánh
mạnh nên 2 ông đã bất đồng chánh kiến về việc hạ sát anh em ông Di ệm. Do đó ông Kennedy
phải đánh lừa dân Mỹ để giết anh em
ông Di ệm, dẹp bỏ ấp chiến lược, mở cửa cho Việt Cộng xâm nhận
rồi thử kế sách Chiến Dịch Phượng Hoàng. Vì thế nên ông Johnson không biết chi
tiết chiến lược của ông Kennedy nhưng vì đã chót cưỡi lưng cọp (vì ông Kennedy
bị ám sát) nên phải tiếp nối chương trình dở dang. Bằng cớ là ông Johnson cứ khuyên
Tổng Thống Thiệu từ ngày nắm quyền là Trung L ập miền nam đi, đó là chỉ dấu cho thấy ông
Johnson muốn lui bước, nhưng vì chủ quan nên dân Việt không nhìn thấy nhược
điểm của Mỹ. Do đó, lợi dụng chiến thắng Mậu Thân nhưng thua phản Chiến nên
Jonhson kêu gọi hòa đàm mà dân ta chê là nhát như thỏ.
Nhưng vào năm 1968 thì
thực sự Mỹ đã thua Nga không những về vũ khí hiện đại mà còn thua luôn về binh
pháp và mất nhân tâm nữa. Nga đã chủ động trong sách lược đầu độc
lính Mỹ trên chiến trường bằng ma-túy và phá rối hậu phương bằng đòn phản
chiến....Nếu không khéo thì nước Mỹ mất luôn và thế giới đã bị nhuộm đỏ vào đầu
thập niên 1980, cả Âu Châu rung rinh với khẩu hiệu thà Ðỏ còn hơn chết. Các nhà
tư bản bỏ chạy qua Mỹ với tâm trạng lo sợ, báo chí và sách vở về lịch sử con đó
để chúng ta tham khảo.
Khi lên nắm quyền thì
Tổng Thống NIXON hứa lui binh bằng cách Việt Nam hóa chiến tranh. Kế sách ngầm
là bắt tay với Mao để hoán chuyển chính trường Nga Sô bằng kinh tế tư bản
"bóc lột", do đó phải:
Bỏ quần đảo Hoàng Sa
và nước Cambodia cho Tàu và bỏ Việt Nam cho Nga để Tàu bao vây Nga; và Nga bao
vây Tàu thì mới có thời gian củng cố lại tiềm lực và tìm chiến lược mới.
Vì thế cho nên ngay
sau khi mất Cambodia, Mỹ gài cho miền nam lẹ và để lại nguyên trạng sự phát
triển kinh tế tự do để thay đổi tâm tư các nước chư hầu của Nga đến thu chiến
lợi phẩm (coi tài kiệu của phe Ðông Âu thì rõ).
Cuối cùng thì ông
NIXON đã thắng thế mặc dù có sự lủng củng do vụ Watergate tác động.
Thành quả cho thấy là
vào năm 1990, khối Nga Sô rụp một cái rầm để có thế giới ngày hôm nay; Mỹ làm
bá chủ nhân loại: Siêu cường vô địch vào thời ông Tổng Thống BRUSH bố... Ðể ông
Tổng Thống BRUSH con phá của.
Ðó là chuyện quốc tế;
còn chuyện của chúng ta thì chúng ta tự lo lấy, đừng vọng ngoại để dịch chủ tái
nô mà không hay.
Khối Cộng Sản Quốc Tế
tan cái rụp vào năm 1990, đến nay (2014) chỉ còn có 4 nước là Bắc Kinh, Bắc
Hàn, Cuba và Việt Nam. Năm nay 2015 CUBA đã tự ý ra khỏi nhóm Cộng Sản Chủ
Nghĩa.
Vậy tại sao dân Việt
vẫn chưa thoát khỏi vòng kim cô Cộng Sản để tiến theo người nhỉ? Trong khi đó
thì tự ca tụng là thông minh vượt bực? Phải chăng dân Việt đã lạc hồn nên mới
dùng tái trí vượt bực của mình để tự hủy?
Nhìn thẳng vào sự thật
thì chúng ta thấy xã hội Việt hôm nay đã tan rã hoàn toàn về cơ chế tổ chức xã
hội lẫn tư duy con người. Ðã 25 năm qua mà vẫn ù-lỳ tụt hậu, cứ cái đà này thì
con cháu chúng ta sẽ chịu thảm họa chồng chất không còn khả năng để ngóc đầu
lên nổi: Thành quả tự nhiên phải có là Tiêu Vong, hiến đất cho Tàu.
Ở
trên đời này không có cái gì tự nhiên mà có cả, phải tranh đấu, phải làm việc
mới có tương lai sánh vai cùng nhân loại. Tay làm thì hàm nhai. Tay quai thì
hàm chết đói.
Muốn
như vậy thì chúng ta phải lái thuyền gối sóng để đừng chìm; phải làm lại từ đầu
theo triết lý thiên nhiên của xã hội loài người.
Khi trước chỉ có Việt
với Tàu nên nó lấy thịt đè người, mà cha ông chúng ta đâu có chịu thua như thời
nhà Trần: Châu chấu lại đòi đá xe, tưởng chừng chấu chết chẳng de xe nghiêng..
Như thời nhà hậu Lê đã chém đầu Liễu Thăng hay thời Tây Sơn đã đuổi quân Tôn S ỹ Nghị chạy về Tàu mà vẫn
chưa hết vía: Trống ngực còn đánh liên hồi, mồ hôi còn lã chã chưa thôi.
Nay ta có cả thế giới
giúp sức. Vì nếu ta mất với Tàu thì là một đại họa cho nhân loại, vậy chúng ta
phải lợi dụng thế đứng lá chắn không cho Bắc Kinh bành trướng quá lố để gây
nguy hại cho nhân loại nếu vòng đai lá chắn không cho nó thoát ra Thái Bình
Dương bị bục.
Vòng đai đó là: Triều
Tiên (Mỹ), Nhật Bản, quần đảo Ðiểu Ngư (Nhật), Ðài Loan (Mỹ), Phi Luật Tân
(Mỹ), Mã Lai, Thái Lan và Việt Nam.
Muốn đi từ tình trạng
chia rẽ này (vì tinh thần ích kỷ vọng ngoại cầu an) thì con đường vững vàng
nhất là phải tự rèn luyện để cứu lấy tương lai dân tộc mình trên 4 trận địa sau
đây để khi thời cơ đến thì phải chụp ngay lấy.
Khi đang thất thế lưu
vong, thì phải soạn thảo kế sách và âm thầm tu luyện trong hậu cứ an toàn là
các nước tiếp cư, lấy sự hậu thuẫn của nhân loại để cổ súy cho các kế sách này
(tức là ngoại giao, báo chí, truyền thông.....và cách sống nề nếp của cộng đồng
Việt trên nước tiếp cư như chúng ta đang làm là ghi ơn, là vận động cho các dự
luật ngày 30/4, lá cờ vàng.....).
Chúng ta thừa hưởng
văn minh của nhân loại thì con cháu chúng ta cũng có bổn phận phải góp văn minh
của dân Việt cho cộng đồng nhân loại để tránh mang tiếng là ăn bám xã hội tếp
cư.
Bốn trận địa phải qua
là:
1.
Việt
Giáo: Xây dựng Giáo Lý để sống cho xứng đáng làm
người Việt ở kỷ nguyên điện toán, dù sống ở trong nước hay ở hải ngoại.
2.
Việt
Ðạo: Xây dựng mô hình sinh hoạt cộng đồng để làm
phương tiện phát triển sức sống của dân Việt ở kỷ nguyên điện toán.
3.
Việt
Triết: Xây dựng văn hóa thượng đẳng của cộng đồng gốc
Việt trong cũng như ngoài nước để đóng góp văn minh tinh thần của dân Việt
trong mục đích xây dựng xã hội hài hòa giữa con người với nhau.
4.
Học
Thuyết thoát hiểm: Ðề ra những phương án để xây dựng xã hội
hài hòa với sự hội nhập văn hóa một cách bình đẳng. Khuyến khích nhân loại thi
đua cách ăn ở sao cho cao đẹp, đả kích và tìm cách ngăn chặn sự dùng bạo lực để
ức hiếp nhau.
Tất cả 4 mặt trận kể
trên đều có từ ngày con người biết thành lập binh đội cùng với văn hiến để bảo
vệ sự tự chủ. Tức bảo vệ nền Văn Hóa của dân mình chống lại sự xâm lăng của
người, nay tạo môi trường cho nếp sống hội nhập bình đẳng các nền Văn Hóa, cùng
nhau thi đua nếp sống tốt đẹp của mình thì tự nhiên hết bạo lực.
Ngày trước chưa làm
được vì phát minh khoa cho phép; ngày nay làm được vì kỷ nguyên điện toán cho
phép nếu chúng ta biết khai dụng mặt trận truyền thông, vì nhân loại ai ai cũng
muốn sống thanh bình và an nhàn; chỉ có những kẻ bệnh hoạn tham quyền cố vị thì
mới nghĩ cách đi thống trị người khác. Ðó là bể khổ do chính con người tạo ra;
nay chúng ta phải tìm cách thay đổi não trạng hủ lậu này. Coi biểu của Quang
Trung dâng vua Càn Long về việc đả kích cống người vàng thế mạng Liễu Thăng thì
thấy sức mạnh của đầu lưỡi đã hoán chuyển được não trạng hủ lậu của người lãnh
đạo.
✧
Hướng soạn bài:
Bài này sẽ được in
thành sách dùng làm tài liệu cho chương trình giáo dục khi người dân lấy được
chủ quyền, thay đổi chương trình giáo dục ích quốc lợi dân là điều bắt buộc
phải làm.
Theo Việt Triết (triết
lý sống của dân Việt), thì toàn dân giữ nước chứ không phải triều đình giữ
nước. Quan niệm toàn dân giữ nước đã được ký thác trong lá cờ NỀN VÀNG. Màu
vàng của lụa tơ tầm là sắc thái dân Việt. Hay trong khẩu hiệu: Giặc đến nhà đàn
bà cũng phải đánh hoặc trong truyện Rồng Tiên Khai Quốc đã được giải mã và
giảng giải trong năm đầu (bài số 06). Quý vị có thể lấy trên trang web: www:
nhanvanviettoc.blogspot.com
Tiếp nối 20 bài giáo
khoa vừa qua là bài thuyết trình về đề tài: Nhu Cầu Canh Tân Tư Tưởng thuộc về
phần thứ nhì (Canh Tân Tư Tưởng) của chương trình 7 năm. Bài thuyết trình này
gồm 3 phần:
1.
Phần thuyết trình dùng làm đề tài thảo
luận.
2.
Phần Tham Luận do sự đóng góp của nhiều
người có thiện ý.
3.
Phần đóng góp của các tham dự viên trong
buổi hội luận.
✧
Vì nhu cầu khai thông
bế tắc tư tưởng để thoát khỏi hiểm họa tiêu vong, Hán hóa, nên chúng ta mới có
chương trình Nhân Văn Việt Tộc.
Chúng tôi chỉ là những
người đề xướng, muốn thành công thì cần có sự phụ họa của những người còn thiết
tha với tương lai dân tộc. Người phụ họa là người tiếp tay không những vun bồi
chương trình cho thật phong phú mà còn là người phổ biến và giảng dạy cho thế
hệ trẻ trên dưới 20 tuổi vì trong tương lai các em sẽ chánh thức là chủ nhân
ông của đất nước.
Lúc đó nếu các em được
trang bị đầy đủ tinh thần Việt tộc thì các em sẽ là những vị cứu tinh dân tộc,
còn không thì tư duy sẽ suy thoái để từ từ tiêu vong vì những món nợ chồng chất
về giáo dục bắt ngồn từ năm 1427 (thời Lê
L ợi lên ngôi) với quan niệm "Ðất của Chúa, Lúa của
Trời", người dân chỉ là những tên nô
lệ cho nhóm độc quyền cai trị hưởng thụ.
Vì tư tưởng nô dịch đã
thấm sâu vào máu quá lâu, nên tên lưu manh Hồ Chí Minh dù mang tên giả, không
cha không mẹ, không tiểu sử, cũng đã đánh lừa được nhiều nhà trí thức theo hắn
một cách mù quáng.
Bằng cớ là hắn đã hô
hào một cách ấu trĩ như sau mà cũng có người theo một cách cuồng nhiệt:
➢
Con
người là công cụ sản xuất (tức nô lệ), thế mà cho đến ngày hôm nay
(2014) nhà đại Toán Học Ngô Bảo Châu còn tuyên bố môt cách mù quáng rằng: Tôi
chỉ là lao động trí thức! Vậy thì ai là người lãnh đạo trí thức? Không lý hắn
lại tự đặt mình dưới sự lãnh đạo của tên Nguyễn Tấn Dũng chưa qua khỏi bậc tiểu
học hay sao?
➢
Tiến
tới chủ nghĩa Tam Vô (vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo)
để : Con tố cha, vợ tố chồng, anh em đâm chém nhau như thù nghịch. Tam vô là
chủ nghĩa vô luân của xã hội loài thú.
➢
Hô
hào giai cấp đấu tranh. Tức kích động người Việt đâm chém nhau
một cách hăng say để tự diệt cho Tàu hưởng!
✧
Người phụ họa xây dựng
tinh thần Việt tộc và Tư Duy độc lập không nhất thiết phải là nhà khoa bảng hay
trí thức, mà chỉ cần có thiện chí và nghị lực là đủ.
Vì các vị khoa bảng
hay trí thức hiện thời, phần lớn đều không biết gì về môn Việt học cả. Không
những rất ít vị để tâm nghiên cứu Tư tưởng người Việt và sinh hoạt trong xã hội
người Việt từ ngày lập nước Văn Lang (2.879BC) đến ngày hôm nay, mà lại còn dè
bửu là hoài vọng viển vông.
Lý
do mê muội: Trong
chương trình giáo dục và sinh hoạt ngoài đời không có môn Việt học, vì môn này
đã bị cấm học từ thời Gia Long (1802) cho đến Việt Cộng ngày hôm nay. Mục đích
của Tà Quyền là: Tẩy não để nhồi nhét tư duy nô dịch, phỉ báng tổ tông thì họ
mới ngự trên trên ngai vàng với sự hậu thuẫn của ngoại bang được.
Họ chủ trương là phải
nhờ cái xác chết khô của ông Khổng Tử, ông Mác, ông Lê, ông Mao hay ông Tây ông
Tàu nào đó thì dân Việt mới biết cách sống.
✧
Vì xã hội bế tắc như
vậy nên mới có chương trình Nhân Văn Việt Tộc để khai thông tư tưởng, xây dựng
tư duy độc lập thì mới kết hợp sức mạnh dân tộc được.
Vậy thì: Nhân Văn Việt Tộc là gì?
Nhân Văn Việt Tộc là
học làm người Việt tốt, biết cách sống cho mình và sống cho người. Sống ngang
vai với nhân loại.
Tại
sao phải có chương trình này?
Một nhóm nghiên cứu sử
Việt thấy cần phải giải tỏa bế tắc tư tưởng do bọn thống trị cố tình bóp méo
Việt Sử một cách rất tinh vi nên chúng ta có bổn phận phải vạch ra những mâu
thuẫn ngay trong bản văn để phục hồi hào khí chánh đáng của tổ tiên, và đồng
thời giải tỏa những ngộ nhận tương tự như:
"Dân Việt sinh ra
để làm nô lệ cho người, văn hóa Việt từ Tàu mà ra, tổ tiên chúng ta đã sát hại
dân Chiêm và chiếm đất của dân KHMER".
Trong thực tế thì dân
Việt sinh ra để đem cuộc sống hài hòa cho nhân loại, văn hóa Tàu từ Việt mà
ra..... và nhất là dân Việt hội nhập với dân Chàm để tạo thanh bình, đất rộng
người đông; và dân Việt chưa hề đụng độ với dân Chân Lạp (Khmer) vậy thì sao
lại gọi là chiếm đất của nhau được. Trước năm 1471 thì đồng bằng sông Cửu Long
chưa có, chưa có luật chủ quyền trên thềm lục địa nên dân nào khai phá đến đâu
thì hưởng đến đó. coi bài số 2.09 (năm thứ nhì, bài số 9) với chủ để "Hội
Nhập Chiêm-Việt " Link
www.nhanvanviettoc.blogspot.com
✧
Bằng chứng tư tưởng bị đầu độc:
Năm 1427, trong bài
Bình Ngô Ðại Cáo quốc sư Nguyễn Trãi đã dõng dạc tóm lược lịch sử dân Việt từ
thời Hồng Bàng vỏn vẹn trong 2 câu:
"Duy ngã Ðại Việt chi quốc, thực vi
văn hiến chi bang."
Diễn nghĩa là: Chỉ có
nước Ðại Việt của Ta, thực sự đi vào từng tiểu bang một thì tất cả đều có nền
văn hiến nhân bản của giống người (tức văn hiến của nếp sống nông nghiệp)......
Còn nước mi là văn hiến của loài thú theo nếp sông du mục, mạnh được yếu thú,
lấy thịt đè người.
Khoa học ngày hôm nay
(2015) đã minh xác lời nói này là đúng với sự thực về lịch sử của nước Văn
Lang.
Như thế thì thấy rõ là
thế hệ cha ông đã bị đầu độc tư tưởng nên mới có tư duy nô dịch là phải có
"bác Mác, bác Lê" mở đường khai trí nên chúng ta mới biết đường sống
trong nô lệ chủ thuyết của kẻ thống trị....... Còn trước đó thì tổ tiên chúng
ta không biết an phận, điếc không sợ súng nên mới dám đánh Tàu chạy thục mạng
phải chui vào ống đồng dưới sự reo hò của các nữ binh như lời nói của Gia Long
trong biểu cầu xin phong vương có câu ươn hèn khiếp nhược như sau: ".....
bọn loạn tặc Tây Sơn đã dám làm cho quân của Thiên Triều bỏ chạy tán loạn, nay
trời đã vật chúng chết rồi....... "
Di
tích còn đó:
Bạch Ðằng, Vạn Kiếp,
Chương Dương, Chi Lăng, Ðống Ða, Rạch Gầm Soài Mút...... Những chiến thắng này thì sử gia của chúng ta
trong thời kỳ nô lệ không được nói tới.
Ví thế nên ngày hôm
nay (2015) Việt Cộng tay sai Bắc Kinh, không những đã dấu nhẹm trận Hải Chiến
Hoàng Sa, Mạc Ga và cuộc chiến biên giới .... mà còn ra tay đàn áp những nhà
yêu nước nữa. Ðó phải chăng là cái nhục cho toàn dân? Có nên nhổ bỏ cái gai
ngáng cẳng canh tân con người này hay không?
✧
Góp
gió thành bão:
Biết mà không nói là
đắc tội với dân tộc nên chúng tôi nói ra để thế hệ kế thừa biết đường thoát
hiểm. Sự hiểu biết của nhóm chúng tôi có hạn mà nhu cầu tìm hiểu Lịch Sử, Văn
Hóa và Tư Tưởng thuần Việt lại bao la nên chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các nhà:
Sử học, Việt học, Triết học (Tư tưởng), Khảo cổ học hãy tiếp tay với chúng tôi
để tạo một số vốn thoát hiểm tụt hậu cần phải có cho hậu thế mà chính thế hệ
chúng ta đã để lại gánh nặng cho chúng.
Chúng ta phải trang bị
cho các em thanh thiếu niên những hành trang đầy đủ về môn VIỆT HỌC (học về
người Việt và đất Việt) trước khi các em bước chân vào đời; vì sau này chính
các em sẽ là chủ nhân ông của đất nước: Tre già; măng mọc.
Nếu vốn liếng ít ỏi
thì khó mà tranh đua được với nhân loại như Mỹ, Pháp, Ðức Nhật (coi nền giáo
dục thanh thiếu niên của họ thì biết).... còn vốn-liếng xung-túc thì cuộc sống
sẽ phơi-phới sánh vai cùng các dân tộc tân tiến nhất nhì trên thế giới.
Ðời sống của con người
rất ngắn so với đời sống của một dân tộc; nếu chúng ta không muốn con cháu
chúng ta sống trong tủi nhục, ươn hèn thì hãy tìm cách phục hồi Khí Phách Rồng
Tiên và Văn Hóa Lạc Hồng mà chính chúng ta đã đánh mất từ lâu rồi.
✧
Chương trình sinh hoạt:
Ðể giải tỏa bế tắc của
ngành giáo dục nên chúng ta mới có chương trình Nhân Văn Việt Tộc.
Mỗi năm sinh hoạt 10
tháng với mục đích là: Thoát hiểm để sánh vai cùng nhân loại ở kỷ nguyên điện
tử này (toàn cầu hóa). Phần học này thuộc về Việt Giáo.
Ngoài ra còn phần Việt
Ðạo, Việt Triết và cách sáng tạo Học Thuyết thoát hiểm của người Việt nữa,
những phần này sẽ bàn sau.
➢
Phần Việt Giáo cần 7 năm tu luyện và được
chia làm 2 phần là:
Phần
A: Gồm 2 năm học dưới dạng Giáo Khoa dùng cho thế
hệ Thanh Thiếu Niên nam nữ.
-
Năm thứ nhất học về Văn Hóa thuần Việt để
kết hợp toàn dân, xây dựng tư duy độc lập.
-
Năm thứ nhì học về lịch sử Việt do chính
người Việt soạn thảo để gây vốn thoát hiểm cần phải có. Vì thế nên bài soạn
phải có tính cách khách quan thì cái vốn đó mới có giá trị để canh tân đất nước
một cách hữu hiệu được.
Phần
B: Gồm 5 năm viết dưới dạng thuyết trình vì cần sự
đóng góp của toàn dân trong giờ Hội Luận để tìm cách thoát hiểm tiêu vong do sự
tụt hậu mỗi ngày mỗi nhiều.
Năm thứ ba là năm Hội
Luận về đề tài Tư Tưởng dân Việt với 10 bài thuyết trình:
➢
Từ tư tưởng dân gian đến tư tưởng của kẻ
thống trị.
➢
Từ hùng khí của những trang sử lẫm liệt
để so sánh với tư tưởng nhu nhược của bọn cầm đầu và tư tưởng buông xuôi của
người dân nên mới lún xâu vào vòng dịch chủ tái nô.
➢
Xin xem chương trình dự trù trong 7 năm
trên link www.nhanvanviettoc.blogspot.com
Xét như vật thì chúng
ta cần phải đề ra lộ trình:
●
Chương trình xây dựng con người đến nơi
đến chốn.
●
Ðội ngũ giảng sư chuyện nghiệp.
●
Phương tiện giáo dục tân tiến.
Hai năm đầu là xây
dựng ý chí vươn lên bằng người.
Năm năm kế tiếp là xóa
bỏ u tối trong lòng mà cha Lạc Long gọi là Giặc U Tối cần phải quyết tâm tiêu
diệt(coi bài số 06: Rồng Tiên Khai quốc, link: www.nhanvanviettoc.blogspot.com)
Như vậy thì chúng ta
thấy rõ là: Canh Tân Tư Tưởng là một nhu cầu cấp bách để thoát hiểm Hán Hóa vì
tụt hậu tinh thần lẫn suy thoái vật chất.
✧
Vấn đề được đặt ra là
Canh Tân Tư Tưởng để làm gỉ? Canh
Tân theo chiều hướng nào? Tới đâu thì đủ? Và Canh Tân bằng cách nào cho hiệu
nghiệm? Ðó là chủ để của buổi hội luận ngày hôm nay. Xin mọi người đóng góp, vì
đây không phải là việc làm của một người hay một nhóm; mà là công việc của cả
thế hệ đóng góp mới tìm ra lối thoát.
Ai cũng biết là cuộc sống của xã hội loài người càng ngày càng phức tạp
vì văn minh khoa học thăng tiến không ngừng nên mọi việc đều chòng chéo lên
nhau với sự hỗ tương ảnh hưởng cửa nhau. Muốn giải quyết vấn đề thì phải tìm
hiểu nguyên nhân chánh xác rồi mới tìm ra được kế sách thoát hiểm. Do đó phải
phân vùng rõ ràng thì mới nhìn thấy rõ ràng những việc đã qua: Vì đâu nên nỗi? Và
từ đây mới hoạch định chương trình thoát hiểm.
✧
Trước hết chúng ta hãy luận về một vài ngôn từ cần thiết..
LUẬN VỀ
TƯ TƯỞNG
Vậy thì Tư Tưởng là gì? Có từ bao giờ? là câu phải trả lời trước tiên.
A/Tư
Tưởng là gì?
Tư Tưởng là sự suy
nghĩ để đưa ra một đề án tốt nhất để thi hành với mục tiêu mong muốn mà mình dự
đoán.
Tư tưởng thì ai cũng
có để giải quyết vấn đề cá nhân, gia đình cho đến dân tộc và nhân loại. Ở đây
chúng ta chỉ bàn đến tư tưởng có ích lợi cho sự an bình của đất nước và của
nhân loại mà thôi.
➢
Trong thế toàn cầu hóa thì đất nước là
một đơn vị căn bản trong cộng đồng nhân loại.
Theo tiếng Việt thì:
Tư Tưởng là: SUY NGHĨ.
Nghĩa là suy nghĩ rồi
đưa ra đề án giải quyết vấn nạn hiện có để tiến tới mục tiêu mong muốn.
Mục tiêu đúng hay sai
là chuyện phải dùng đến Tư Duy Ðộc
Lập để phán xét. Ðề án đưa ra tốt hay xấu là tùy ở trình độ Triết cao hay thấp.
B/-
Tư Tưởng có từ bao giờ?
Tư Tưởng bắt đầu nảy
sinh cách đây vào khoảng 15.000 năm.
Vì: Tiếng nói dùng để
diễn tả tư tưởng, vậy thì tư tưởng có từ ngày con người biết nói.
Con người biết nói từ
thời điểm nào?
Khởi thủy thì con
người là con vật bị bạc đãi, chạy chậm, vồ hụt, da mỏng...hữu sinh nhưng phần
lớn là chêt yểu nên sống lẻ tẻ, chỉ có tiếng kêu chứ chưa có tiếng nói. Lý do
là không có nhu cầu và chưa có tư tưởng, hành động theo phản xạ chứ không theo
lý trí.....mà lúc đó bộ óc trống rỗng nên làm gì có lý trí.
Vì bị bạc đãi nên bộ
óc phải làm việc để thoát khỏi cảnh thú vật, do đó mới sáng tạo ra lương thực
để bảo đảm sự sống. Lúc này cần cuộc sống quần cư nên phát sinh ra tếng nói,
mới đầu còn đơn sơ về sau theo nhu cầu mới phong phú.
Theo sự nghiên cứu của
ông Setephen
Oppenheimer thì nông nghiệp có sớm lắm là vào khoảng 13.000
BC.
Vậy thì tiếng nói có
sớm lắm là cách đây (năm 2015) khoảng 15.000 năm. Lúc này tư tưởng mới bắt đầu
nảy sinh.
LUẬN VỀ TƯ DUY
Tư Duy là: SUY LUẬN.
Nghĩa là kết luận sự
việc đã xảy ra sau khi điều nghiên kỹ càng thành quả của nó; hoặc đã xảy ra
hoặc trong dự kiến thi hành dự án.
LUẬN VỀ TRIẾT
Triết học là môn học
về sự vận hành vạn vật.
Nguyên nhân này nằm
trong môi trường này thì sẽ sinh ra thành quả kia mà ta gọi là thuận lý.
Muốn đẻ ra đề án để
tạo sự an bình cho đất nước thì Triết gia phải có cái vốn về Triết và các yếu
tố do Tư Duy Ðộc Lập của mình hay của nhóm mình cung cấp.
Tỷ dụ: Muốn giải một
bài toán thì bao giờ cũng phải có một số yếu tố (facteurs donnés) và một số
định lý (théorèmes; nguyên lý vận hành) thì thí sinh mới đưa ra kết luận của
mình được.
Vậy thì Tư Duy cung
cấp yếu tố và Triết cung cấp các định lý để Tư Tưởng biết đường tạo ra đề án để
giải quyết một vấn đề nào đó.
Ðề án có giá trị ổn
định xã hội thì gọi là HỌC THUYẾT, còn ít giá trị thì gọi là phương án.
Về phần nhà cầm quyền,
muốn cho sáng giá thì gọi đó là Chủ Thuyết, tức học thuyết chánh phải theo. Như
Việt Cộng gọi chủ nghĩa Mác Lê là Chủ Thuyết Mác Lê.
Về phần người dân muốn
đề cao thì gọi đó là Minh Thuyết, Minh Triết. Chữ minh có nghĩa là sáng chói.
Minh Thuyết hay Minh
Triết thì có nhiều, nhưng Chủ Thuyết chỉ có một.
✧
SỨC MẠNH CỦA
VĂN HÓA
Văn
Hóa là tiếng Tàu, văn là đẹp, còn Hóa là tiếng nói
tắt của tiếng Phong-Hóa. Phong là gió hay là cách ăn ở như Phong độ, Phong lưu,
Phong cách, Phong thái..... Hóa là thay đổi. Vậy thì Văn Hóa là thay đổi cách
ăn ở cho hợp thời một cách đẹp đẽ; tức là cách sống thanh tao nhẹ nhàng,
thoang-thoảng như gió mùa thu.
Người Việt mình gọi là
Nếp Sống, tức sống riết nó
thành nếp rồi, cứ sự kiện này thì phản ứng như thế này nó nằm trong tiềm thức
để có phản xạ tự nhiên.
Vậy thì rõ ràng Văn
Hóa thuần Việt là yếu tố để kết hợp toàn dân Việt với nhau, vì có cùng một Tâm
Hồn Việt (tim và óc Việt)
Tỷ dụ: Người Tàu khi
ra đường thì gọi nhau bằng NGỘ và NỊ, người Mỹ thì YOU và ME.
Trong khi đó người
Việt chào hỏi nhau thì phải xưng hô theo vai vế gia đình, mặc dù người đó chẳng
có máu mủ chi với ta cả. Nhưng vì tinh thần đồng bào nên ta coi họ như người
nhà. Vì thế nên tùy theo môi trường lúc thì ta gọi là bác, khi thì ta gọi là
anh hay là thày (dạy học) Coi bài họ về cách xưng hô trong xã hội Việt. Cách
xưng hô độc đáo này phát sinh vào khoảng 600BC (www.nhanvanviettoc.blogspot.com
-bài số 7 thuộc về Văn Hóa Thuần Việt)
LUẬN VỀ VĂN
MINH
Văn Minh là sự sáng
tạo ra dụng cụ mới để cuộc sống được nhàn tảng hơn. Văn Minh đầu tiên của loài
người là biết cách tạo ra lửa và biết dùng lửa để làm đồ gốm (đồ làm bằng đất
nung) để luộc tôm, cá và ngô, khoai, lúa. Từ đây mới sáng tạo ra nghề Nông để
bảo đảm cuộc sống và tiến dần cho đến kỷ nguyên điện toán ngày hôm nay...và còn
tiếp tục tiến xa nữa để cuối cùng đi đến tận thế.
Ðó là quy luật thiên
nhiên nếu loài người không biết dừng lại để hưởng thụ thì sẽ chết vì bội thực.
Ðề tài này sẽ bàn vào năm thứ 3 của phần Canh Tân Tư Tưởng (tức năm thứ 5 của
chương trình Nhân Văn Việt ộc)
Ảnh
hưởng của Văn Minh:
Văn Minh bắt buộc nếp
sống vật chất phải thay đổi theo phương tiện mới; sự thay đổi này kéo theo sự
thay đổi Tư Duy và Tư Tưởng cho hợp thời kẻo bị đào thải vì lỗi thời và lạc
hậu.
Ðiển hình là bọn Cán
Ngố khi tiếp thu Saigon: Ngồi xe công vụ có tài xế riêng mà lại đi đất, mặc
quần xà-lỏn hay mặc áo bà ba xem nó khôi hài ra sao ấy.
Hoặc mua băng vệ sinh
rồi chia nhau dán lên mồm làm "khẩu
trang" chống không khí ô nhiễm môi sinh...... chỉ vì ngoài Bắc gọi
khẩu trang là Băng Vệ Sinh. Dưới thời Hồ Chí Minh, ngoài đó Phụ Nữ ở truồng
tô-hô, mặc váy để đi tiểu tiện đứng ngay giữa chợ kéo váy ra rồi tè một bãi,
nên làm gì có vải để dịt cái lá đa của mình. Hơn nữa "Bác Hồ" cấm vì
đó là thành phần tiểu tư sản, phí phạm.
Vậy thì canh tân tư
tưởng và thay đổi tư duy là điều bắt buộc phải làm nếu chúng ta không muốn làm
trò khỉ trong xã hội văn minh như Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng xuất ngoại vì công
vụ đã làm trò hề, khoa chân múa tay, ăn nói lắp bắp để cho thiên hạ cười, báo
chí rỡn cợt.
LUẬN VỀ VĂN
HIẾN
Văn Hiến là bản văn
quy định trách nhiệm, bổn phận và quyền hạn của mọi thành phần trong một quốc
gia. Nay chúng ta gọi là Hiến Pháp (Văn là đẹp, Pháp là khuôn phép phải theo).
Khi thành lập quốc gia thì mới cần Văn Hiến để dễ bề quản trị việc nước.
Vậy thì:
●
Vì có tinh thần Cầu Tiến nên mới có Văn
Minh.
●
Vì Văn Minh tiến bộ nên mới có Cộng Ðồng
(cuộc sống quần cư).
●
Vì nhu cầu nên cuộc sống quần cư đẻ ra
tiếng nói và văn hóa.
●
Học Thuyết phát sinh:
Ðời
sống cứ thế thăng tiến nên có nhu cầu thành lập Quốc Gia để xâm lăng hay để tự
vệ. Cả hai bên đều phải lập binh đội, do đó phải đẻ ra học thuyết xâm lăng là tự
cho mình cái quyền đi bóc lột người dưới chiêu bài KHAI PHÓNG và học thuyết tự
vệ là bảo vệ quyền sống theo văn hóa của dân mình.
●
Văn Hiến ra đời:
Vì
xã hội có tổ chức nên bắt buộc phải có vấn đề phân công cho rõ ràng nên mới đẻ
ra Văn Hiến (nay chúng ta gọi là Hiến Pháp)
LUẬN VỀ VĂN
HỌC
Văn
học là học cách sống tao nhã của con người. Bản văn
hay thì được xếp vào loại văn học.
Văn học là hình (thực
thể), còn bản văn là cái bóng. Giống như chữ viết để ghi lại tiếng nói. Tiếng
nói ở thể động, còn chữ viết ở thể tĩnh. Hai trạng thái động tĩnh khác nhau
nhưng lại mang cùng một thông điệp nên người ta vẫn lẫn lộn hai trạng thái là
một. Tỷ dụ như tôi viết chữ Việt thì lại nói là tôi viết tiếng Việt; hoặc tôi
đọc chữ Pháp thì lại nói là tôi đọc tiếng Pháp... Hay tôi uống một hụm nước thì
lại nói là tôi uống một miếng nước (miếng chỉ chất đặc cầm được, còn hụm chỉ
chất lỏng không cầm được).
Tóm lại cho dễ nhớ:
-
Văn
Minh sinh ra Văn Hóa.
-
Văn
Hóa đẻ ra Văn Hiến.
-
Văn
Hiến tạo ra Văn Học.
-
Văn
Học sinh ra Văn Chương.
-
Văn
Chương cần bút tự.
-
Bút
tự cần sự phát minh ra giấy.
Lúc đầu viết trên mành-mành tre; đi đâu thì cuốn lại
rồi sách đi nên gọi là CUỐN SÁCH vẫn
còn dùng cho tới ngày hôm nay. Ðó là thời kỳ đồ sắt (#600BC) ở vùng có tre có
nứa, tức vùng nhiệt đới ở phía nam Hoa
L ục; như vậy thì văn hóa và văn minh của người Tàu bắt nguồn
từ văn hóa và văn minh của dân nông nghiệp.
Vì chúng là dân du mục nên chúng phát triển nền văn hóa nhân bản của dân
nông nghiệp thành văn hóa của tập đoàn bành trướng bằng võ lực..... Giống như
người Tây Phương đã lợi dụng kỹ nhệ thép để đi thống trị các sắc dân hiền hòa
trên thế giới.
Vì văn minh khoa học thăng tiến không ngừng nên sự suy nghĩ phải thay
đổi cho phù hợp với bối cảnh lịch sử hiện tại, còn không thì sẽ tiêu vong vì
lạc hậu và lỗi thời.
Nói một cách văn vẻ thì nếp sống thay đổi nên phải Canh Tân Tư Tưởng và
thay đổi Tư Duy để thăng tiến cùng nhân loại; còn không thì sẽ tiêu vong vì lỗi
thời và lạc hậu.
✧
PHẦN II : Lịch sử nhân
loại nên biết
Biến thái văn hóa nhân loại.
Con người có mặt trên trái đất từ 2 triệu năm nay. Da mỏng lại không có
lông ấm nên chỉ sống được ở xứ nóng mà thôi. Khởi thủy ở phía nam SOMALIE ngày
hôm nay (coi tài liệu bước chân loài người (JOURNEY OF MANKIND) của ông Giáo Sư Stephen
Oppenheimer 2003; link www.bradshawfoundation.com/journey/timeline.swf
Lúc đầu sinh sống như loài thú, chia nhau đi săn mồi là trái cây, tôm cá
mắc cạn nên chưa có tư tưởng và tiếng nói. Chỉ có tiếng kêu gọi đàn mà thôi.
Nay chúng ta chia ra làm nhiều thời kỳ theo tiến bộ văn minh để nghiên
cứu cho dễ; chứ thực ra nếp sống chồng chéo lên nhau nên, khó nghiên cứu như
hiện nay trong xã hội văn minh (nếp sống thượng đẳng) còn có những người vẫn
sống theo nếp sống cổ xưa (trung đẳng hay hạ đẳng chẳng hạn).
Thời kỳ sơ khai:
Kiếm ăn bằng 2 bàn tay...đó là nền Văn Hóa Sơ Ðẳng. Hiện nay ở trên trái
đất vẫn còn có những khu vực ở đó con người không cần kim loại như dao kéo.... Họ
sống vi vu trên ngọn cây và cảm thấy thích thú và hạnh phúc..
Thời kỳ đá cuội:
Vì chạy chậm, vồ mồi hụt nên mới xúm nhau lại lấy đá vừa tầm tay chọi
thỏ, gà, chuột cáo...... để chúng bị thương rồi chạy đến vồ, đập chết để ăn
sống nuốt tươi như loài thú hiện nay.
Thời kỳ đá ghè:
Ðá vừa tầm tay kiếm không ra nên phải ghè cho nhỏ lại. Vì ghè quá mạnh
nên tóe lửa bắt vào lá khô bốc cháy. Lúc này dùng lửa để thui thú cho lâu thối.
Mục đích là để dành ăn dần chứ không phải thui để ăn ngon như ngày hôm nay. Vì
lúc đó ăn thịt tươi vừa thơm vừa có vị; còn ăn thịt thui thì khô, vừa mất mùi
vị lại vừa cứng.
Thời kỳ đồ gốm:
Coi lịch sử đồ gốm của nhà nghiên cứu Bùi Ngọc Tuấn trên link:
www.dogom/bui ngoc tuan thì chúng ta sẽ thấy đam mê vì từ đây suy ra được sự
tiến bộ của văn minh nhân loại, tư tưởng, tiếng nói, chữ viết, nếp sống và
nhiều điều khác nữa; từ đây chúng ta có thể ước đoán ra tiến trình toàn cầu hóa
sẽ ra sao
Ðây là khởi điểm thoát khỏi ngục tù thiên nhiên, trời sinh sao thì an
phận làm vậy. Con người đã tinh khôn và biết cách dự trữ thực phẩm rồi sáng tạo
ra thực phẩm....thay đổi môi sinh, làm náo loại thiên nhiên.
Lúc ban đầu nặn đất sét bằng tay, nung ngoài trời dùng để luộc tôm luộc
cá cho khỏi tanh.
Về sau khôn hơn nên nặn bằng đất sét trộn với cát, làm bằng bàn xoay, có
trang trí bên ngoài và nung trong lò. Sau đó tráng men là bùn lỏng; về sau tiến
bộ nên chế ra men tốt hơn và đẹp hơn và cứ thế mà tiến lên nước men như ngày
hôm nay.
Nhờ có gốm vân thừng, nghĩa là bên ngoài lấy dây thừng ấn vào trước khi
nung nên chúng ta suy ra là ở thời điểm đó loài người đã biết lấy dây leo để
bện thành thừng trói thú. Một đầu cột chặt vào gốc cây, đầu kia làm một cái
thòng lọng. Ðợi lúc chú bò ngủ cạnh gốc cây thì đem móc vào cẳng rồi bỏ chạy;
thế là chú bò giật mình tỉnh dạy lấy chân ngóc ngóc để thòng lọng thít vô. Vậy
là chú bị trói vào gốc cây; chừng nào đói thì ngả thịt.
Thời kỳ nông nghiệp (13.000BC):
Ðây là thời kỳ tạo ra thực phẩm. Ở thời điểm này nhân số trên toàn thế
giới chưa quá 3 triệu người.
Khi biết dùng lửa rồi thì con người mới đi khắp nơi trên địa cầu để kiếm
ăn.
Theo nghiên cứu của ông Stephen Oppenheimer
thì thời kỳ đó vào khoảng 75.000BC, con người chưa vượt khỏi vùng nhiệt đới.
Ðến 40.000BC mới mon
men kiếm ăn ở vùng ôn đới.
Mãi đến 25.000BC mới
chinh phục được vùng Hàn Ðới, nhưng trụ không được lâu. Lúc này lục địa Mỹ Châu
vẫn chưa có vết chân loài người.
Ðến 19.000BC thì lại
thụt về Bắc vỹ tuyến 55
Ðến 13.000BC: Nền nông
nghiệp ở Ðông Nam Á mới thành hình cùng với cách tính Miêu Lịch theo vị trí
ngôi sao chuẩn đúng giữa đêm. Thời gian được đo bằng cái vại đất nung ở đáy có
chọc một lỗ cho nước ri-rỉ chảy ra. Ðây là máy đo thời gian đầu tiên.
Ðến thời đại đồ đồng
thì cái vại đất nung được thay bằng cái hồ đựng nước bằng đồng nên ta gọi dụng
cụ đo thời gian là cái Ðồng Hồ (vào khoảng 3.000BC), tức cái hồ bằng đồng. Lúc này nhân số trên toàn thế giới chưa tới 3 triệu
người.
(coi bài Việt Lịch số 8 wwwnhanvanviettoc.blogspot.com)
Trong khi đó thì nghề
chăn nuôi bắt đầu phát triển ở vùng Trung Ðông, trung tâm là IRAN. Ðây là tổ
tiên người Tàu.
Danh từ người Tàu do
Triệu Ðà đặt ra vào năm 182BC để đối kháng với danh từ Trung Hoa do mụ Lã Hậu (vợ Lưu
Bang, tức Hán Cao T ổ)
(coi
bài Văn Hóa Tàu từ Việt mà ra số 2 ww.nhanvanviettoc.blogspot.com)
Môi trường sinh sống
làm thay đổi nhiễm sắc thể (chromosone) nên con người biến dạng to nhỏ khác
nhau, da trắng da đen, mắt đen mắt xanh....
Nghề nghiệp sinh sống
làm thay đổi tâm tính con người cho nên Văn Hóa Du Mục lấy bạo lực làm cán cân
công lý, vì kẻ thù của họ là động vật.
Nông Nghiệp lấy nhân
tính làm cán cân công lý, vì kẻ thù là thiên nhiên, mất mùa thì chết cả đám nên
đẻ ra triết lý thực dụng:
Nhất
sỹ nhì nông
Hết
gạo chạy rông thì nhất nông nhì sỹ.
✧
SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NỀN VĂN HÓA
NÔNG NGHIỆP VÀ DU MỤC
Tính từ 14.000 năm trở
lại đây (2000) thì trái đất chịu cả thảy là 4 trận đại hồng thủy, lần chót vào
khoảng cách đây 8.000 năm.
Khi nước dâng cao là
lúc bàu khí quyển nóng, băng tuyết tan thành nước, khi nước biển rút thì khí
quyển nguội nên nước đóng thành băng tuyết. Sự nóng lạnh khí quyển là do phản
ứng hóa học sinh ra như: Trái đất đã phải để ra hàng triệu năm để biến các chất
độc địa thành URANIUM hay PETROLE; trong phản ứng thì hút nhiệt xung quanh. Nay
ta đem xài nên khí quyển nóng lên chẳng hạn.
Chúng ta có thể nhìn
trên vách đá ở vùng Dead Valley (ARIZONA), bờ biển Normandie (FRANCE) hay ở
Việt Nam, tỉnh Ninh Bình hay vùng đồng bằng sông Hồng thì thấy dấu vết của nước
thủy triều. Ðo phóng xạ carbone thì định được tuổi của các rêu mọc ở vách núi.
Khởi thủy sắc dân sống
về nghề nông được gọi là MIÊU tộc, sinh sống ở lục địa Ðông Nam Á ngày hôm nay
từ sau trận đại hồng thủy cuối cùng, tức khoảng 3.500BC. Chữ MIÊU có nghiã là
Mễ (ngũ cốc), tiếng Việt.
Về sau người Tàu là
dân du mục từ IRAN di qua theo các cánh đồng cỏ là STEPPES mà bên Á Châu không
có; họ sang thì gặp con cháu Ðế Nghi sống dọc theo lưu vực sông Hoàng (tức
Hoàng Hà; Hà là sông dử, giang là sông hiền) vào thời Hoa H ạ (#1.700BC). Sau đó là nhà
Thương (1.500BC) rồi đổi thành nhà Ân (#1.300BC) rồi đến nhà Chu, nhà Tần (Tần
Thủy Hoàng Ðế )
Từ ngày Lưu Bang (tức
Hán Cao T ổ) ở
Tràng An chết vào năm 183BC thì vợ là Lã Hậu nhiếp chính, nhốt con vào tù nên
xã hội rối ren. Do đó y thị mới phát binh đi đánh nước Nam Việt của Triệu Ðà
(Triệu Việt Vương) để đẩy phe thù nghịch ra chiến địa.
Vì cần học thuyết để
xâm lăng nên y thị đẻ ra danh từ TRUNG
HOA , tức trung tâm tinh hoa của vũ trụ. Dân chúng dưới triều
nhà Hán thì gọi là Hán Tộc để phân biệt với các sắc dân xung quanh là Bắc Rợ
(rợ Hồ = Mông Cổ; rợ Kim = Mãn Thanh) Tây Quỷ gồm dân Ngô Cát Nhĩ (Tân Cương)
và Tây Tạng. Phương Nam có dân Việt thì gọi là Nam Di để phát quân đi khai hóa
cho chúng.
Ðể chống lại các danh
xưng hỗn xược nên Triệu Việt Vương mới gọi chúng là Tàu (nghĩa là một lũ ngố)
để chỉ bọn du mục sống ở lưu vực sống Hoàng (Hoàng Hà chảy qua Bắc Kinh) và gọi
vợ chúng là Xẩm (có nghĩa là lòa, hát xẩm là điệu hát của người mù lòa có từ
đời nhà Trần).
Về sau trong bài Bình
Ngô Ðại Cáo (1.427) Quốc Sư Nguyễn Trãi có tóm lược lịch sử nước Việt từ thời
Văn Lang (2.879BC) như sau:
Duy ngã Ðại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Có nghĩa là: Chỉ có
(duy) nước (quốc) Ðại Việt của ta (ngã)
mới thực sự (thực vi)
là nước (bang) có nền văn hiến.
Diễn
nôm là: Thực sự (thực) đi vào từng tiểu bang một (vi),
tất cả đều có nền văn hiến nhân bản (nông nghiệp) của loài người....Còn nước mi
có nền văn hiến bắp thịt của loài thú (theo nếp sống du mục).
Vậy thì văn hóa nông
nghiệp lấy tình người làm chánh (âu cơ; âu là trái tim, cơ là chánh) vì kẻ thù
là thiên nhiên, mất mùa thì chết cả đám, giàu nghèo hay sang hèn gì thì khi đói
cũng chết. Vì vậy mới có câu:
Nhất sỹ nhì nông,
Hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sỹ.
Còn văn hóa du mục là
: Lý kẻ khỏe bao giờ cũng đúng.
Văn hóa lấy thịt đè
người, hiếu sát, hiếu chiến và hiếu thắng.
THỜI KỲ QUẦN
CƯ
Hãy hình dung lại cuộc
sống của loài người ở thời điểm quần cư vì đã nghĩ ra được cách sản xuất thực
phẩm để không sợ đói.
Theo dự đoán của di
vật để lại thì nghề nông xuất hiện cách đây khoảng 15.000 (13.000BC) ở Ðông Nam
Á Châu (tây phương gọi là miền đất phương đông; tiếng Tàu gọi là địa đàng
phương đông).
Cũng ở thời điểm này
thì sắc dân du mục sống bằng cánh đồng cỏ (Steppe) phát xuất từ Trung Ðông mà
khởi điểm là IRAN rồi lan đi khắp bắc bán cầu.
Khởi
đầu của Triết: Khi cuộc sống đã ổn định thì ai cũng đặt
câu hỏi là con người từ đâu mà ra? Hay con gà có trước hay trứng gà có trước?
Nếu lấy sự hiểu biết
của chúng ta thì không ai có thể giải nghĩa được, vì môi trường lúc đó hoàn
toàn khác với môi trường sinh sống ngay hôm nay.
Từ địa chất đến bàu
không khí và nhiệt độ đều hoàn toàn khác ngày hôm nay.
Câu hỏi này thuộc phạm
trù Triết học, nghĩa là luận về chu trình biến hóa vạn vật. Xét câu trả lời thì
biết ngay tư tưởng của người thời đó.
1.
Tất cả mọi câu trả lời từ Tôn Giáo đến Triết Gia hay
thường nhân không ai chú trọng đến môi trường sinh sống cả, cho nên đi đến bế
tắc tư tưởng, rồi cả vú lấp miệng em. Tự mình tôn lên làm thánh làm thần để
ngụy biện chống lại những ai hỏi vặn hỏi vẹo.
2.
Nên nhớ là lúc đó tất cả đều quan niệm
"thiên cơ bất khả lộ", trời tròn đất vuông, trời che đất chở. Bàu
trời quay quanh trái đất nên tha hồ tưởng tượng ra mọi huyền bí mà khoa học
chưa cho phép giải thích được. Ðem thần sấm (bà La Sát ), thần sét (ông Thiên Lôi ), ông Thiện
ông Ác, quỷ sứ ra dọa con nít.
3.
Ngoại trừ dân Việt thì tất cả nhân loại,
kể cả các vị giáo chủ đều nói là phải có một Ðấng Tối Cao nào đó sinh ra loài
người, và mỗi vị bịa ra một vị tối cao của giáo lý mình.
Cứ
thế, giáo dân nhắm mắt theo kinh điển được tu chính của người đời sau nên gọi
là môn phái. Tuy theo kinh điển của cùng một giáo chủ nhưng mỗi môn phái diễn
giải theo một ý khác nên chia ra thành môn đồ; lâu ngày các môn đồ cứ xa nhau
và đưa ra các giáo lý cho hợp với môi trường hiện tại.
4.
Vì dân Việt bướng đấu nên phản bác lại
rằng: Nếu nói ông Trời sinh ra vạn vật thì ai sinh ông Trời? Bố ông Trời sinh
ra ông Trời (không cần mẹ!). Vậy thì ai sinh ra Bố ông Trời?.... Cứ thế kéo dài
bất tận.
Ông
Trời là tiếng nói tượng trưng cho đấng cao siêu nào đó. Ông trời không phải là
DIEU mà là LE CIEL (bàu trời do ông quản trị nên ông chỉ ló có cái mặt ra nên
ta gọi là Mặt Trời: Le Soleil)
5.
Lúc đó dân Việt khẳng định rằng chẳng ai
sinh ra cả, con người có là do TẠO HÓA sinh ra. Vì lười không suy nghĩ nên
không đọc được tư tưởng cao siêu của tổ tiên qua chữ Tạo Hóa rồi chê người Việt
cù lần, nhìn đâu cũng thấy cái bướng bỉnh, chây lười cả. Chỉ vì sống lâu trong
nô lệ lâu ngày nên nảy sinh ra tinh thầm yếm thế.
Ðây
nhé:
Chữ TẠO có nghĩa là sinh ra; và chữ HÓA có nghĩa là biến
đổi.
Vậy thì Tạo Hóa có
nghĩa là do sự biến đổi mà sinh ra. Tỷ dụ cơm là sự biến đổi của gạo, nước,
nhiệt mà ra. (cơm=gạo+nước+nhiệt).
Bàn tay phù thủy biến
đổi vạn vật là NHIỆT; nhiệt sinh ra bởi sự cọ sát của các nguyên tử mà ra. Các
nguyên tử luôn luôn di chuyển vì đây là môi trường động nên không có vật nào
đứng nguyên một chỗ cả. Trong vũ trụ mà chúng ta đang sống không có môi trường
tĩnh nào cả.
Thuyết Thiên Mệnh của Khổng Tử : Bố láo !
Từ tư tưởng Tạo Hóa
nên mới phát sinh ra Lý Dịch, rồi ông Khổng Tử bịa ra thuyết Thiên Mệnh nên mới
biến Lý Dịch thành Kinh Dịch. Kinh dịch đẻ ra Tử Vi, Tử Vi đẻ ra Bói và Toán,
Bói Toán để ra mê tín: Xin Sâm. Khúc này đã được giảng trong bài Khổng Tử chả
có gì để học.
www.nhanvanviettoc.blogspot.com bài học số 2.07 (bài số 7
năm thứ nhì)
✧
Việt Triết lúc khởi
thủy chẳng giống ai, vì thế nên tư tưởng thuần Việt thuộc dân nông nghiệp, lấy
sự vận hành của sao làm chuẩn cho nếp sống của mình.
Còn tư tưởng của sắc
dân du mục lấy mặt trăng làm kim chỉ đạo cho cuộc sống của họ.
Nông Nghiệp là sắc dân
định cư nên có văn minh xóm làng và đô thị; còn Du Mục thì không có nếp sống
văn minh ổn cư. Do đó xã hội loài người có 2 luồng tư tưởng khác nhau: Tư Tưởng
Nhân Bản và Tư Tưởng Bắp Thịt.
➢
Về sau có sự giao lưu văn hóa nên có sự
pha trộn tư duy và tư tưởng.
PHẦN III : Lối thoát của dân Việt
Thế
đứng xưa và nay
Ngày xưa, di chuyển
khó khăn, thông tin hạn hẹp vì văn minh khoa học mới chỉ ở thời đại đồ đồng và
đồ sắt nên chỉ có Việt với Tàu.
Nước Việt ở thế cô,
dân Việt lại ít, lãnh thổ chỉ có từ Ải Nam Quan đến đèo Hải Vân; thế mà tổ tiên
chúng ta đã chặn được bước tiến của Bắc Quân để bảo vệ tự chủ như thời Lý
Thường Kiệt (nhà Lý), nhà Trần, Lam Sơn và Tây Sơn.
Vào thời kỳ Cơ Khí (kỹ
nghệ thép), dân Á Châu với tư tưởng lỗi thời nên chậm tiến đối với xã hội Tây
Dương, do đó bị khống chế bởi vũ khí tân tiến.
Khi nô lệ thì tư tưởng
lại bị méo mó do kẻ thống trị là Thực Dân Pháp nhồi nhét để an phận tôi đòi.
Lúc này truyền thông chưa phát triển, vận chuyển còn khó khăn nên dân ta bị
nhốt trong nước và chấp nhận nền giáo dục ngu dân để dễ trị.
Vì thế nên Việt Cộng
mới bồi tiếp tư tưởng nô dịch Mác Lê để nhắm mắt tiến mau tiến mạnh lên xã hội
chủ nghĩa; trong khi đó chính người lãnh đạo là ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú
Trọng hiên ngang tuyên bố là: Chưa chắc 100 năm nữa đã tiến tới Xã Hội Chủ
Nghĩa, mặc dù chưa biết Xã Hội Chủ Nghĩa mặt mũi ra sao, tốt hay xấu..... nhưng
cứ nhắm mắt lao đầu xuống hố.
Theo Tố Hữu thì Việt
với Tàu là một, Việt tiêu vong thì đã có Tàu quản lý đất Việt. Rõ ràng tư tưởng
của hắn nằm trong 2 câu thơ bất hủ mà Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng khen nắc nỏm:
Bên đây biên giới là nhà,
Bên kia biên giới cũng là quê hương.
Nếu chưa muốn mất nước
với Tàu hay bất cứ ngoại bang nào thì việc xóa bỏ tư duy nô dịch và tư tưởng
hướng ngoại phải làm ngay và thay vào đó bằng cách xây dựng Tư Duy Ðộc Lập và
Tư Tưởng hợp thời nếu chưa muốn dân Việt tiêu vong.
Ngày nay, nhờ văn minh điện toán nên chúng ta
có thêm mặt trận truyền thông và vận chuyển, và chúng ta phải khai dụng tối đa
để không bị bưng bít thông tin và không bị cột cẳng với tư duy nô lệ chủ nghiã
Mác Lê.
Phá vỡ bưng bít thông
tin là phá vỡ cái ngu trong đầu, phục hồi nhân phẩm dân tộc thì mới thoát hiểm
được.
Hiện nay sự hung hăng
của Bắc Kinh đe dọa vùng Ðông Hải và Nam Hải để thông ra Thái Bình Dương. Khi
ra được Thái Bình Dương rồi thì Bắc Kinh thi hành mộng bá quyền thế giới (one
world, one china).
Việc đầu tiên là chiếm
Ðông Hải và Nam Hải bằng vùng lưỡi bò, đe dọa an ninh trong vùng và giao thông
quốc tế.
Nước yếu hèn nhất là
Việt Nam trong khi địa thế Việt Nam lại nằm ngay trong vùng chiến lược toàn
cầu. Ðó là cơ may để người Việt chúng ta nhờ Quốc Tế bảo trợ và nhân dịp này
vực lại sức mạnh toàn dân thì mới mong thoát khỏi hiểm họa Hán Hóa được.
Việt Cộng ươn hèn
không dám chống đối Bắc Kinh thì toàn dân đứng lên lật chúng xuống để tự cứu
lấy mình; đừng bỏ lỡ dịp may này.
Muốn tự cứu thì phải
kết hợp toàn dân. Muốn kết hợp toàn dân thì phải thay đổi não trạng, nghĩa là
phải có ý chí và nghị lực canh tân tư tưởng và thay đổi tư duy của chính cá
nhân mình cho hợp thời thì mới tạo được thế kết hợp toàn dân.
Sau đó còn phải có cái
nhìn bao quát về tình hình thế giới thì mới biết đường thoát hiểm để tự vực dạy
cho ngang vai cùng người.
Vậy thì Canh Tân Tư
Tưởng sao cho hợp thời và xây dựng Tư Duy độc lập là một nhu cầu cấp bách để tự
cứu lấy mình.
Vấn
đề canh tân tư tưởng: Canh Tân tư tưởng ra sao, theo chiều
hướng nào và tới đâu thì đủ?..... Ðây là bài toán của toàn dân nên cần sự đầu
tư trí tuệ của mọi người.
●
Thiết nghĩ việc thẩm định trước tiên là
Thế Giới cần gì ở Việt Nam, và người dân Việt làm được gì cho họ thì mới có thể
đòi hỏi đổi chác để tự thoát khỏi vấn nạn do Việt Cộng chủ tâm đem tới.
●
Nhìn địa hình chiến lược toàn cầu và sự
hung hăng của Bắc Kinh thì chúng ta thấy:
1.
Bắc Kinh hiện nay bị tù túng trong vùng
Ðông Hải và Nam Hải. Hải là vùng biển nhỏ, Dương là vùng biển lớn. Hà là sông
dữ, Giang là sông hiền.
2.
Ðông hải là vùng biển phía đông của Hoa L ục, giới hạn là Triều Tiên,
Nhật Bản, quần đảo Ðiểu Ngư và dảo Ðài Loan.
3.
Nam hải là vùng biển ở phía nam Hoa L ục bị ngăn chặn bởi Phi Luật
tân, Nam Dương quần đảo, Mã Lai, Thái lan và Việt Nam.
4.
Người ta lấy vùng đất được gọi là Hoa L ục làm chuẩn không có nghĩa
là vùng đất đó thuộc về cái dân tộc được gọi là "Hán". Trong thực tế
thì không có dân Hán, vì từ nhà Hạ đến nay người ta vẫn gọi người dân sống dưới
triều đại nào thì mang cái tên đó, hoặc sắc dân sống ở vùng nào thì mang cái
tên vùng đó; chứ nó không lệ thuộc vào nếp sống (văn hóa) của sắc dân đó.
●
Bên nước Việt của chúng ta thì khác hẳn:
Sắc dân mang tên là gì thì sống theo nền văn hóa đó. Khi văn hóa và tiếng nói
thay đổi thì sắc dân đó mang cái tên mới.
Tỷ
dụ dân Tày thì họ nói tiếng Tày và sống theo văn hóa Tày. Còn bên Tàu thì: Sắc
dân gọi là Hán tộc nay họ đâu có nói tiếng của nhà Hán, mặc y phục Hán hoặc
sống theo văn hóa Hán nữa đâu..... Vậy thì Chánh Quyền Bắc Kinh vỗ ngực là: Ta
đây Ðại Hán chi có nghĩa là họ theo đuổi đường lối bành trướng không ngừng bằng
bạo lực như triều đại nhà Hán đi thôn tính lân quốc.......Coi lịch sử nhà Ðông
Hán thi rõ.
Thế
chánh Trị: Về phương diện chánh trị thì chúng ta thấy đường
lối và sinh hoạt chánh trị thì hiện nay Nhà cầm quyền Bắc Kinh đang bị đe dọa
bởi tư tưởng Tự Trị của từng vùng nên họ rất lo ngại cuộc đấu tranh của Sinh
Viên HongKong.
Muốn ổn định chánh trị
và củng cố quyền lực thì bắt buộc họ phải gây chiến để thoát ra biển Ðông (Thái
Bình Dương). Mà muốn thoát ra biển Ðông thì phải phá vỡ vòng vây từ Triều Tiên
vòng xuống Mã Lai rồi lên đến Việt Nam.
Khi ra được biển Ðông
thì lại phải tiếp tục gây hấn với Úc Châu, Ấn Ðộ để còn lấy lý cớ bắt dân nhịn
đói đi xâm lăng với chiêu bài gãi ngứa dân tộc vào năm 2008 là: Một Thế Giới,
một nước Tàu (nghĩa là nước Tàu thống trị thế giới)...
➢
Khẩu hiệu này thì chúng đã nêu cao trong
Thế Vận Hội ở Bắc Kinh năm xưa (2008).
Nếu các nhà Lãnh Ðạo
Bắc Kinh không thay đổi não trạng để có cuộc sống nhân ái và hài hòa sắc tộc
bằng cách hội nhập bình đẳng văn hóa và xã hội đồng tiến thì họ chỉ mua lấy
thảm họa chia ly như liên bang Sô Viết vậy.
Vì nhân loại không
muốn chết bởi hành động của một đám háo chiến, háo thắng và háo sát nên chúng
ta có cơ thoát hiểm nếu biế thay đổi não trạng kịp thời.
Nhìn thẳng vào sự thật
thì nước Tàu là một liên bang ô hợp, lấy bạo lực để ép buộc dân bị trị và tìm
cách biến họ thành con người u tối để dễ bề đè đầu cỡi cổ.
Cách cai trị này bắt
nguồn từ nhà Chu với chế độ Phong Kiến, sau đó là nhà Tần với chế độ toàn trị,
rồi đến nhà Hán với chế độ quân phiệt.....Mao cũng quân phiệt vậy và ngày hôm
nay cũng thế vì chúng là một lũ điên say mê quyền lực nên bắt buộc phải sống
nhờ chiến tranh.
✧
Muốn chặn thảm họa
nhân loại thì chỉ còn cách hoặc thay đổi não trạng của bọn cầm quyền thích bành
trướng, hoặc ngăn chặn không cho chúng phát triển và đồng thời đem thông tin
đến với toàn thể dân Hoa L ục,
một khi người dân thâu nạp đầy đủ thông tin thì họ sẽ thay đổi ý chí và bắt tay
vào hành động để đòi quyền sống làm người ở kỷ nguyên điện tử như nhân dân ở
HongKong.
Canh tân tư tưởng ra
sao? Tới đâu thì đủ?
Trước hết chúng ta
phải biết thế đứng của mình quan trọng ở chỗ nào trong tranh chấp quốc tế thì
mới biết đường canh tân tư tưởng để bảo vệ tự chủ.
Có bảo vệ được tự chủ
thì mới xây dựng được xã hội an bình, và từ đây mới xây dựng được con người để
canh tân xứ sở cho giàu mạnh.
Mạnh vì gạo, bạo vì tiền,
còn ngửa tay đi xin viện trợ, đi vay nợ để sống thì làm gì có độc lập mà nói
đến tự do dân giàu nước mạnh.
Như đã phân tích ở
trên là hiện nay nước Việt là một mắt xích ngăn chặn sự bàng trướng võ lực ra
Thái Bình Dương của Bắc Kinh và sau đó Bắc Kinh sẽ dọa nhân loại để trên thế
giới này chỉ có một nước Tàu, trung tâm chỉ huy là Bắc Kinh. Coi khẩu hiệu One
world, one China (chỉ có một thế giới của nước Tàu) của bọn bành trướng Bắc
Kinh đã trương lên trong năm 2008 khi chúng đăng cai Thế Vận Hội. Rõ ràng là
bọn này muốn thống trị thế giới.
Muốn có tự chủ thì
phải giữ vai trò lá chắn không cho Bắc Kinh bành trướng đe dọa nền hòa bình của
nhân loại, và cũng không làm mũi xung kích giúp nhân loại tiêu diệt sức mạnh
của Bắc Kinh. Phải làm sao 2 bên cân bình thì thế giới mới yên vui trong thanh
bình được.
➢
Ðó là mục tiêu phải đặt tới.
Từ mục tiêu này chúng
ta đi ngược thời gian cho đến
chỗ đứng hiện tại của Việt Nam ngày hôm nay thì sẽ tìm ra được khế sách tự
chủ.... Ðó là khế sách an bình mà chúng ta phải đề xướng và cùng nhân loại thi
hành.
Muốn sáng tạo ra học
thuyết thì chúng ta phải có cái vốn về khả năng thực thi của dân Việt và nguyên
nhân suy thoái tư duy để có nghịch cảnh ngày hôm nay. Muốn vậy thì chúng ta
phải đi suôi chiều lịch sử:
Nghiên cứu lịch sử quá khứ để thay đổi lịch sử hiện tại thì mới mong tìm ra
được kế sách tự chủ trong an bình nhân loại.... Ðừng mơ ước một nước Việt an
bình trong thế giới nhiễu nhương, đó chỉ là ảo vọng thôi. Vậy thì chúng ta có 2
mệnh đề phải giải quyết:
Mệnh
đề thứ nhất là: Gây vốn thoát hiểm, tức thay đổi lịch sử
hiện tại để xây dựng tương lai.
Mệnh
đề thứ nhì là: Tạo học thuyết xây dựng xã hội hài hoài
giữa các sắc tộc.
Mệnh đề thứ nhất:
Gây vốn để thoát hiểm
Chúng ta có 4 khâu
phải xây dựng cho hợp với đời sống văn minh điện toán, đó là:
(1)
Việt
Giáo:
Giáo
Lý học làm người, tức những đức tính phải có để trở thành con người của thời
đại điện toán. Việt giáo đặt mục tiêu tiến tới là: Tinh thần tự trọng và cầu tiến để tiến lên khí phách Rồng Tiên với
nếp sống Lạc Hồng.
Tự
trọng là ý nghĩa của danh từ Văn Lang và Cầu Tiến là ý nghĩa của danh từ VIỆT.
Từ 2 đức tính căn bản này mới đẻ ra muôn vàn đức tính phải có của con người Văn
Lang: Hào hoa, Phong nhã, Phóng khoáng, Hào hiệp và Lịch sự Bặt Thiệp (§ Rồng
Tiên Khai Quốc bài số 6 www.nhanvanviettoc.blogspot.com)
(2)
Việt
Ðạo:
Cách
xây dựng đất nước hài hòa bằng tinh thần thương yêu đùm bọc như chuyện 100
trứng 100 con. Học thuyết này được gọi là con đường phải đi của dân tộc.
Việt
đạo chủ trương xây dựng một xã hội tình người, cùng làm cùng hưởng lấy đơn vị
sinh hoạt nhỏ là Làng hay Hội Ðoàn để gây tinh thần thương yêu, cùng làm cùng
hưởng. Tức là mỗi thành viên đều có quyền đóng góp ý kiến và việc làm của mình
để xây dựng cơ sở căn bản và phát huy tình người...
Ðây
là nơi tập sự làm chánh trị để có tự chủ của cơ sở mà mình tham gia với ý niệm:
Lệnh vua còn thua lệ làng; nay ta gọi là xã hội dân sự (chuyển nghĩa từ danh từ
Tây Phương), nguời dân giữ nước giữ làng chứ không phải Hội đồng Kỳ Mục giữ
làng, giữ nước. Từ dây mới đẻ ra khẩu hiệu xây dựng xã hội hài hòa bằng cách:
Kết hợp với nhau bằng Tâm, cư xử với nhau bằng Ðức. Bình đẳng tột cùng, thân
thương tột độ. (§ Rồng Tiên Khai Quốc bài số 6 www.nhanvanviettoc.blogspot.com)
(3)
Việt
Triết:
Ta
là ai và sống để làm gì? Từ ngày có xã hội loài người cho đến hôm nay
(15.000BC-2015AD) nhân loại có rất nhiều học thuyết (do triết gia đẻ ra) để ổn
định xã hội theo sự đánh giá cuộc sống và mục tiêu nên tới của mỗi triết gia mà
họ gọi là an bình xã hội, hoặc hạnh phúc của người dân, hoặc uy quyền của nhóm
cai trị.
Như
Cộng Sản chủ trương dùng bạo lực để tạo uy quyền cho nhóm cầm quyền bắt nguồn
từ thời Vệ Ửng (Ngũ gia liên bảo, công an trị và bao vây dạ dày). Tức có từ
thời ông cố nội Tần Thủy Hoàng (khoảng 300BC - 290BC).
Riêng Việt Triết thì
người xưa chủ trương đấu tranh tự vệ, xây dựng con người và xóm làng để phong
thủ cho kỹ trước sức tấn công vũ bão của kẻ xâm lăng để hát lâu chầu mỏi buộc
phải lui binh.
Chánh nghĩa giả tạo sẽ
hiện nguy-en hình và tự ý lui binh chấp nhận cầu hòa. Gần chúng ta nhất là quốc
sách Ấp Chiến Lược (phòng thủ xóm làng cho kỹ, toàn dân kháng chiến) và học
thuyết Cần Lao Nhân Vị (tự mình cố gắng xây dựng thế đứng của mình trong xã
hội).
Vì hoàn cảnh thiếu tổ
chức do Thực dân Pháp cố tình chia để trị nên ngoài công tác Quốc Sách nói trên
còn phải: Chống giặc chậm tiến để nâng cao trình độ hiểu biết của tất cả các
sắc dân rồi mới có thể đồng tiến
để bằng các siêu cường được.
Thời xửa thời xưa thì
được ký thác trong châm ngôn: Cương quyết tiêu diệt kẻ thù, không nhân nhượng;
nhưng không những không được truy kích hay trả thù trong lúc đấu tránh mà con
phải độ lượng và khoan dung với người dân do kẻ thù lãnh đạo để cùng nhau tạo
cuộc sống hài hòa và cộng đồng đồng tiến như thời Việt Vương Câu Ti ễn (600BC) đã
sát nhập nước Ngô vào nước Việt để chấm dứt chiến tranh, xây dựng liên bang hài
hòa; hay thời vua Lê Thánh
Tôn (1471) đã giết triều
thần háo chiến chấm dứt sự sát hại sinh linh bất tận để hội nhập hai
nước Chiêm-Việt vào làm một với cuộc sống hài hòa.
Vi thế nên nghĩa quân
Tây Sơn là người Chiêm ở vùng Tây Nguyên (hồi đó gọi là vùng Nam Bàn) Chính họ
đã giải phóng dân Việt ra khỏi sự thống trị của dân Tàu bằng trận Ðống Ða (mồng
5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu:1789). Cũng chính họ đã thâu hồi miền đồng bằng sông
Cửu Long bằng trận đánh oanh liệt trên sông Cửu Long (khúc Rạch Gầm và Soài
Mút) Nếu trận Rạch Gầm-Soài Mút nghĩa binh Tây Sơn thua thì vùng đồng bằng sông
Cửu Long của Khmer và Việt ngày hôm nay đã nghiễm nhiên trở thành đất nước Xiêm
La (tức Thái Lan ngày hôm nay). Chỉ trong vòng có 4 tiếng đồng hồ giao tranh mà
toàn bộ lực lượng thủy binh Thái Lan (khoảng 20.000 người) đã hoàn toàn bỏ mạng
trên chiến địa và không dám mơ ước chiếm đất đang khai phá nữa.
Ngoài ra tất cả voi
trận, ngựa chiến và binh lương, binh khí đều do người Chiêm ở vùng tây Nguyên
cung cấp..... Nay họ đòi ly khai với phong trào Fulro là lỗi ở vua Minh Mạng đã
trả thù vì họ theo anh em
Tây Sơn và ngày hôm nay Việt Cộng đã cướp đất sinh sống của
họ để nhượng quyền khai thác cho Tàu rồi từ từ sẽ biến thành thuộc địa (đất
thuộc về) của Tàu.
Ngày hôm nay thì Việt
Triết phải cập nhật cho phù hợp với kỷ nguyên điện toán, không thể quân tử Tàu
được.
(4)
Học
Thuyết thoát hiểm:
Muốn
sáng tạo ra học thuyết thoát hiểm thì ít nhất phải có cái vốn về những cách
thoát hiểm của người xưa rồi cập nhật để áp dụng vào bối cảnh lịch sử ngày hôm
nay mà những nguyên lý sau đây cần phải nắm cho vững:
a.
Vì tinh thần tự trọng nên chính người
Việt phải sáng tạo ra học thuyết thoát hiểm cho dân mình bằng tinh thần Kết
Hợp, Phục Thiện, Cầu Tiến, Tư Duy độc lập và Tư Tưởng hợp thời của chính mình.
b.
Phương thức mà tổ tiên chúng ta đã áp
dụng để lấy yếu thắng mạnh là: Chánh nghĩa dân tộc, Công Tâm dân mình, Mưu lược
chống kẻ thù như: Nhà Trần, nhà hậu Lê, nhà Tây Sơn đã làm.
c.
Phát huy nền Việt học mà thời Tây Sơn gọi
là nền Chính Học do viện Sùng Chính
đảm nhậm cùng với cách danh sư phụ trách như: La Sơn Phu Tử, Ngô Thì Nhiệm
và nhiều học giả biết chăm lo cho dân. Ngày hôm nay chúng ta gọi là nâng cao
dân trí.
Mệnh đề thứ hai:
Tạo học thuyết xây dựng xã hội hài hòa
Muốn tạo học thuyết
thoát hiểm thì phải biết trong tương lai mình muốn cái gì, và mình phải làm
thay đổi lịch sử hiện tại như thế nào cho có tương lai mong muốn.
Ðây là đề tài rất
bao-la và to lớn nên soạn giả xin được gợi ý như sau:
Trong tương lai:
Thế toàn cầu hóa loài
người cần mẫu người như thế nào để ổn định xã hội phức tạp do văn minh khoa học
tạo ra? Những vấn đề khó khăn phải giải quyết là gì? Ít nhất là giải quyết:
a.
Nạn
nhân mãn vì trái đất hạn hẹp nên chỉ nuôi nổi một sống
sinh vật nào đó thôi; còn không thì sẽ chết vì thiếu dưỡng khí và nước ngọt.
b.
Vấn
đề nhân sinh bình đẳng bằng cách hội nhập bình đẳng
văn hóa và phân chia đồng đều tài nguyên trên trái đất. Tức là giải quyết tận
gốc vấn đề bất công giữa con người với nhau.
c.
Vấn
đề giáo dục cần chương trình giáo khoa nhân văn và
một đội ngũ Giáo Sư chuyên nghiệp không những về kiến thức mà còn phải được
huấn luyện về khoa sư phạm nữa.
Vấn nạn hiện tại:
Trong
thế tranh chấp hiện tại do Tàu gây ra thì thế giới cần gì ở chúng ta và chúng
ta khai dụng được gì để bảo đảm sự tự chủ?
Không
có tự chủ thì chẳng làm được gì ráo chọi. Vậy muốn có tự chủ thì phải làm gì
trước tiên nếu không phải là cùng nhau Canh Tân Tư Tưởng để tránh cảnh dịch chủ
tái nô?
✧
KẾT LUẬN
Như đã phân tích ở
trên thì chúng ta thấy văn minh khoa học làm thay đổi nếp sống của xã hội loài
người.
Văn minh đầu tiên của
loài người là biết cách dùng lửa để làm đồ gốm cải thiện cuộc sống.
Từ đó loài người biết
cách sản xuất ra thực phẩm nên dân số gia tăng rất nhanh. Lúc đầu từ vài triệu
người mà nay đã sinh sôi nảy nở thành 7; 8 tỷ là nhờ vào cách biết tạo ra thực
phẩm.
Khi nếp sống cải thiện
thì Tư Tưởng phải thay đổi để phù hợp với nếp sống văn minh đương thời.
Muốn tư tưởng thay đổi
đúng hướng thì phải nhờ đến môn TRIẾT học làm vốn và Tư Duy làm động lực thì
Triết Gia mới có thể làm đổi nếp sống Tâm Linh được.
Cách suy nghĩ của thời
Kỹ Nghệ vừa qua không còn phù hợp với cách suy nghĩ ở thời đại điện tử nữa; vì
thế nên không những Tư Tưởng phải thay đổi mà Tư Duy cũng phải thay đổi theo.
Tỷ
dụ: Pháp Lệnh dùng để ổn định xã hội trong công lý;
nhưng công lý thay đổi theo Tư Tưởng nên những hình phạt dã man khi trước cần
phải đem ra áp dụng, nhưng ngày hôm nay cần nên phải hủy bỏ như án tử hình
chẳng hạn.
Khi trước xã hội tổ
chức theo phụ quyền nên người đàn bà chỉ giữ chức nội trợ (trợ giúp ông chồng
chăm lo việc nhà, dạy dỗ con cái........) nhưng ngày hôm nay người vợ ở nhà thì
đói meo nên họ phải đi làm. Do đó rất nhiều việc khi xưa không hợp với người
đàn bà, nhất là chánh trị.
Chỉ vì họ bị nhốt
trong nhà không đuợc đi họp nên ngu, rồi bị chê là thiếu khả năng làm một số
việc.... Nay nữ giới được quyền đi học nên đôi khi còn xuấ sắc hơn bạn trai nên
họ có đủ khả nang để lo việc nước từ chức Nguyên Thủ Quốc Gia trở xuống.
Ðiểm này thì nước Văn
Lang đã có tinh thần bình quyền Nam Nữ chứ chẳng phải đợi đến khi có luật về Nữ
Quyền mới biết kính trọng phái nữ. Ðiển hình là bà Trưng, bà Triệu; và gần ta
là bà Bùi Thị Xuân
Tây Phương phát xất từ
nghề Du Mục nên coi khinh đàn bà; còn nước Văn Lang theo Nông Nghiệp nên theo
Mẫu Hệ; nhưng lại theo Phụ Quyền... Ðó là xã hội dân chủ phân quyền: Huyết
thống thì theo dòng mẹ, còn tài năng thì theo di truyền của bố. Những điểm này
không những đã nói rõ trong chuyện Rồng Tiên Khai Quốc, Hoa Văn trên trống đồng Ðông Sơn
mà con nằm trong các thành ngữ như "con hư tại mẹ, cháu hư tại bà"
không biết dạy nhân cách cho con cháu; chứ có ai trach bố nó đâu.
Nhưng ngược lại khi nó
ăn trộm ăn cắp thì người ta lại trách là "Bố nó không biết dạy", hoặc
con nhà tông chẳng giông lông cũng giống cánh, hay cha ăn mặn thì con khát
nước, cha ăn cướp thì con ngồi tù, cha giết người thì con đền mạng...oan oan
tương báo là thế đó.... Con ơi học lấy nghề cha, một đêm ăn trộm bằng 3 năm
làm.
Vì bị nô lệ lâu ngày
nên tư tưởng vọng ngoại, do đó mới tấm tắc ca ngợi Tây Phương tân tiến, không
có họ thì ta không biết dân chủ là gì, không có họ thì ta không biết đến nữ
quyền..... Tức là bụt nhà không thiêng!
--------------------------------------------------
Sách
tham khảo trên Site web
1.
nhanvanviettoc.blogspot.com (20 bài đã học +
tài liệu tham khảo).
2.
Tùng Phong (Ngô Ðình Nhu) / Chính đề Việt
Nam: Nói về học thuyết Cần Lao Nhân Vị và quốc sách ngăn chặn bạo lực từ ngoài
đến bằng kế sách Ấp Chiến Lược và Khu Trù Mật để bảo vệ tự chủ thì mới xây dựng
được cộng đồng đồng tiến bằng cuộc sống hài hòa giữa các sắc tộc trên đất Việt.
Những
gì phải xây dựng và những đánh phá từ bên trong (vì u tối) và từ bên ngoài (vì
cản trở bước tiến của họ)...
Bài
này nên đọc kỹ để biết tại sao lại bị đánh phá dữ dội như vậy.
3.
Stephen Oppenheimer /
www.bradshawfoundation.com/Journey/timeline.swf nói về bước chân loài người từ
150.000 BC .
(kinh
nghiŒm tích lÛy)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét