Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2015

Bài số 3.01: NHU CẦU CANH TÂN TƯ TƯỞNG

BÀI  THUYẾT  TRÌNH  VỀ  CHỦ  ÐỀ
NHU  CẦU  CANH  TÂN  TƯ  TƯỞNG
(bài 3.01 = bài thứ nhất trong năm học thứ 3)
bài số 3.01
Soạn giả NAM ÐỊNH
Bài này gồm 4 phần:
     Thông báo (mời cộng tác)
     Thuyết trình (gợi ý)
     Tham luận (đọc thêm)
     Hội Luận (trao đổi ý kiến)

THÔNG  BÁO  (mời cộng tác)

Ngạn ngữ thời Hùng Vương có câu:
Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Tức là nước Văn Lang được hình thành là nhờ vào 3 loại cây: cây Tre (quốc phòng); cây Lúa (kinh tế) và cây Cau (Văn Hóa Lạc Việt) thì mới tạo được khí phách Rồng Tiên.
       Ðó là 3 yếu tố cần phải có để thoát hiểm tiêu vong, xây dựng thế Rồng Tiên đã được minh họa trên mặt trống đồng Ðông Sơn

Nay muốn cứu nước thì cũng phải có đầy đủ 3 yếu tố là: Tự chủ, Kinh tế phồn thịnh và Việt triết hợp thời.
Làm sao để có 3 yếu tố này là đề án thoát hiểm do thế hệ chúng ta sáng tạo.

 Xét rằng:
Muốn chữa bệnh tụt hậu, suy thoái Tư Duy và lệch hướng Tư Tưởng thì phải nhìn thẳng vào bệnh lý và nguyên nhân gây ra nó thì mới chữa được. Không nên suy đoán bệnh lý rồi vội vàng tìm nhầm thuốc để vô tình tự sát.
Chúng ta muốn có một tâm hồn lành mạnh, nhân hậu trong một cơ thể cường tráng thì chính chúng ta phải có ý chí và nghị lực để tự canh tân tư tưởng và xây dựng cơ chế tổ chức xã hội thì mới có phương tiện phát triển đất nước để bằng người theo đường lối:
       Kết hợp toàn dân trong thế dân tộc đồng tiến với tư tưởng và văn hóa thuộc khoa học Nhân Văn Việt Tộc.

Khoa học nhân văn không phải là khoa học thực dụng, nên các vị khoa bảng chưa chắc đã có ý niệm xây dựng đất nước và con người bằng những người có Tâm Việt và Hồn Việt: Trăm hay không bằng tay quen.

Rằng: Khoa Bảng, Trí Thức và Kẻ Sỹ tuy 3 giới cùng làm việc bằng trí óc cả; nhưng hoàn toàn khác nhau về tư duy và tư tưởng.

Xét về tổ chức xã hội hiện tại:
Rằng: Mô hình tổ chức xã hội là phương tiện bảo vệ sự tự chủ.
Thế mà: Hiện nay, cơ cấu tổ chức xã hội của chúng ta đã hoàn toàn bị tan rã do Gia Long (1802) chủ tâm phá hủy, không còn giống như thời tự chủ: Hùng Vương, Lý, Trần, hậu Lê và nhà Hồ nữa. Coi bộ luật hình sự của các triều đương thời thì biết là họ đã chú trọng đến sự kết hợp toàn 


dân như thế nào; thế mà luật Gia Long lại sao chép luật của nhà Thanh đem về tu bổ đôi chút cho hợp với ý của ông vua đã đem voi Tây về dày nát mả tổ Việt.

Nên nhớ nhà Thanh (Mandchourie; rợ Kim) là ngoại chủng vào thống trị dân Tàu nên luật của họ là luật áp bức và trù dập dân bị trị.
Xét kỹ về bộ luật hình sự của Gia Long, cùng với tài liệu trong sách Con Rồng nước Nam của Hoàng Ðế Bảo Ðại thì chúng ta thấy:
1.      Gia Long coi dân Bắc là ngoại chủng và là kẻ thù nguy hiểm nên đã đặt ra luật riêng để trừng trị.
2.      Gia Long quyết tâm tiêu diệt dân Tây Nguyên chỉ vì đó là dân Chiêm (xứ Nam Bàn) đã dám cung cấp voi trận, ngựa chiến, quân nhu và tình nguyện đi lính cho anh em Tây Sơn. Như vậy là chính Gia Long đã chia đất nước làm 4 vùng là: Bắc kỳ (đàng ngoài), Trung kỳ, Tây Nguyên và Nam Kỳ. Mỗi vùng một luật khác nhau.... Thế mà ông ta dám vỗ ngực là có công thống nhất đất nước do chính tổ tiên ông chia đôi.
Nói cho đúng ra là ông nhờ bạo lực ngoại bang để thâu tóm đất nước, nhưng ông thất nhân tâm nên không thống nhất được lòng dân. Như vậy không thể nói là ông thống nhất đất nước được, phải nói là ông nhờ võ lực thực dân Pháp để Thống Trị toàn dân mới đúng. Ông tranh đấu cho quyền lợi của dòng họ Nguyễn Phúc chứ ông đâu có tranh đấu cho quyền lợi của toàn dân.... Giống y chang Việt Cộng ngày hôm nay.

Xét về con người:
Ngày hôm nay, quan niệm sống của người Việt phần lớn là lơ-là với vận mệnh của đất nước chỉ vì: Lạc Hồn dân Việt nên người lòa lại đi dắt đường cho người sáng. Bằng cớ là dân ta không những chưa thể kết hợp với nhau được mà lại còn ngáng cẳng nhau, chụp mũ và phỉ báng nhau một cách vô tội vạ và vô trách nhiệm.

Sự lạc hồn này bắt nguồn từ sự nghi ngờ của Ðại Vương Lê Lợi đối với công thần thuộc hàng kẻ sỹ, nên nó di hại cho đến ngày hôm nay.
Chúng tôi sẽ phân tích rõ trong mục nguyên nhân suy thoái tư duy và phần tham luận trong bài này. Cụ thể là trong lúc xây lực kháng chiến Lam Sơn, để yên lòng người, kết hợp mọi sức mạnh về võ lực cũng như về trí tuệ thì Quốc Sư Nguyễn Trãi đã phải sai người dùng mỡ
heo viết lên lá cây khẩu hiệu "Lệ Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần" để kiến cắn, lá rụng trôi theo dòng nước rồi phao um lên là Thiên Mệnh.

Vậy thì:
Ngoài vấn đề xây dựng con người thuộc về phần Việt Giáo, chúng ta còn phải nói đến Việt Ðạo dùng để xây dựng xã hội hài hòa và Việt Triết dùng để bảo vệ tự chủ thì mới có cơ hội phát triển đất nước ngang với Mỹ, Pháp, Ðức và Nhật được; mà ta gọi là Canh Tân đất nước.

Tóm lại:

Ba môn học sau đây là cái vốn căn bản cần phải có thì mới có thể sáng tạo ra đề án phát triển đất nước cho ngang vai cùng người được.
Ba môn học này cần phải học song song ngay sau khi lấy lại được chủ quyền từ tay bọn vong nô Việt Cộng. Vì chúng chủ trương phải có Bác Mác, Bác Lê, Bác Mao, Thánh Khổng…. dắt đường chỉ lối thì dân ta mới biết đường sống, trong khi đó thì chúng ta chủ trương phải Tự Lực và Tự Cường, tự sáng tạo ra đường đi cho dân tộc mình. Ba môn học chính là:

       Việt Giáo, tức giáo lý học làm người Việt.

       Việt Ðạo, tức con đường phải đi của dân Việt để có xã hội hài hòa bên trong và thế đứng độc lập bên ngoài.
       Việt Triết, tức triết lý của người Việt về cách sinh sống trong thế toàn cầu hóa. Nói khác đi là kế sách thoát hiểm do chính chúng ta sáng tạo ra thì mới tránh được cảnh dịch chủ tái nô, ít nhất là về ý chí, về tư duy độc lập và về tư tưởng hợp thời.

Một tỷ dụ cho dễ nhớ: Ở NEW YORK, chúng ta có nhà máy sản xuất đủ loại hàng hóa tốt, giá rẻ cần cho thị trường ở FLORIDA cách xa hàng ngàn cây số. Phương tiện phân phối là xe chở hàng với 2 toa bự chạy trên xa lộ và chúng ta có 3 nhu cầu sau đây:
1.      Tài xế giỏi đi đường xa không biết mệt
2.      Phương tiện chuyên chở (xe tốt).
3.      Kỹ sư sáng tạo giỏi làm việc trong nhà máy ở New York
Sau chót chúng ta phải có người giỏi đi nghiên cứu thị trường ở Florida cần loại hàng gì; tức là người làm marketing.

So sánh:
                   Việt Giáo thuộc về huấn luyện nhân sự, tức tài xế có khả năng đáp ứng được nhu cầu.
                   Việt Đạo tức mô hình xã hội hài hòa như việc xe phải tốt đi đường xa không hư dọc đường.
                   Việt Triết tương đương với việc đào tạo kỹ sư giỏi.

Sau chót là phát triển đất nước tương đương với nghiên cứu thị trường thế giới xem họ cần gì ở Ta và Ta cần gì ở họ với mục tiêu là: Bảo vệ tự chủ. Còn mất tự chủ như thuyền không lái, chẳng làm được cái gì cả (marketing mondial).

Tuy nhiên với phương tiện khoa học điện toán chúng ta vẫn có thể thi hành một phần mà không cần phải nắm quyền như: Chương trình nhân văn Việt tộc trên Diễn Ðàn mà chúng ta đang khai dụng.
Ngoài ra không ai cấm chúng ta đưa ra một lộ trình tiến tới mục tiêu để tre già măng mọc; vì đây là chương trình dài hạn, một vài thế hệ không thể hoàn tất được:
1.      Giành lại chủ quyền và phục hồi thực lực, người xưa đã phải để ra 10 năm mới làm xong.
2.      Phát triển đất nước (canh tân xứ sở) cần 10 năm thì mới bắt kịp người.


Thưa đồng bào,
Như Ban Học Vụ đã trình bày, việc nước là việc chung. Suy thoái tư duy, lạc hồn dân Việt là do chương trình giáo dục của lịch sử đã qua mà chúng ta không sửa được.

Nay muốn xoay chuyển lịch sử tương lai cho con cháu đừng chịu thảm cảnh như chúng ta thì việc tham gia sinh hoạt chánh trị, nhất là ngành giáo dục là bổn phận của mọi người.

Có bắt tay vào việc thì mới thay đổi được lịch sử hiện tại để xoay vần lịch sử tương lai theo ý muốn của mình; đừng nại cớ không có khả năng để đùn việc cho người khác.
Ở đời chẳng bao giờ có chuyện bất chiến tự nhiên thành cả. Vì: Tay làm hàm nhai, tay quai hàm chết đói. Ỷ lại vào nguời tức là chấp nhận nô lệ; tự mình không sống nổi.

Biết mà không nói để thoát hiểm tiêu vong là trọng tội đối với dân tộc, nên Ban Học Vụ mới đề xướng ra chương trình Nhân Văn Việt Tộc trong 7 năm gồm 2 phần là:
(1)          Khôi phục khí thề trong 2 năm bằng bài Giáo Khoa
(1)          Canh Tân Tư Tưởng trong 5 năm dưới dạng Hội Luận vì cần sự đóng góp của nhiều người.

Năm nay là năm thứ ba, bài đầu tiên (3.01) là thảo luận về "Nhu Cầu Canh Tân Tư Tưởng".

Vậy thì câu hỏi được đặt ra là: Tại sao phải canh tân tư tưởng? Không canh tân tư tưởng thì chuyện gì sẽ xảy ra? Canh tân theo chiều hướng nào và tới đâu thì đủ?

Canh Tân Tư Tưởng thuộc về phần Việt Giáo, chúng ta còn Việt Ðạo và Việt Triết như đã trình bày thì mới hoàn tất được con người và mô hình xã hội trước khi thực sự Phát Triển đất nước cho bằng người.

Việc đất nước là việc chung, Ban Học Vụ xin kính mời những vị ưu tư đến vận mệnh dân tộc trong hiện tình sắp sửa bị Hán hóa hãy cộng tác với chúng tôi để chúng ta có thể phác họa được một lộ trình thoát hiểm kẻo trễ quá rồi. Xin quý vị liên lạc với Ban Giảng sư qua e-mail:buungocson@sky.com

Ngoài ra cũng xin quý vị tiếp tay mời gọi kẻ sỹ tham gia vào công tác giáo dục dài hạn này, đừng để bị hụt hẫng khi Việt Cộng ra đi để lại cho dân tộc rất nhiều thảm họa có thể đưa đến sự tiêu vong.
Bây giờ mới sửa soạn thì đã là quá trễ rồi đấy.

Kính báo,
Ban Học Vụ kính mời


THUYẾT  TRÌNH (gợi ý)

Kính thưa quý vị,
Ai cũng biết là đời sống của con người quá ngắn ngủi so với đời sống của một dân tộc.
        Khi ta sinh ra thì dân tộc đã có rồi. Bối cảnh lịch sử hiện tại đã được an bài do dòng lịch sử đã qua tạo ra, mà người ta có thói quen gọi là định mệnh. Ðịnh mệnh là sự ù lỳ của học thuyết Thiên Mệnh do ông Khổng Tử bịa ra. Học thuyết này đúng ở thời kỳ khoa học chưa giải thích được những hiện tượng thiên nhiên; nhưng nay thì thuyết Thiên Mệnh hoàn toàn ngụy biện.
        Khi ta trưởng thành thì chính thế hệ đương thời có bổn phận và có khả năng thay đổi lịch sử hiện tại để xoay chuyển lịch sử tương lai theo ý mình mong muốn.
Ðôi khi việc làm của một người có thể làm thay đổi vận mạng nhân loại trong tương lai mà không nhất thiết người đó phải nắm quyền.
Tỷ dụ: Lời khuyên của ông Nguyễn Phi Khanh với con là Nguyễn Trãi đã cứu nguy dân Việt; hay học thuyêt Karl Marx đã làm nhân loại điêu linh mà dân Việt phải chịu hậu quả cho đến ngày hôm nay mà chưa hết; nếu không biêt đường thoát thì sẽ tiêu vong luôn..

Tóm lại: Lịch sử quá khứ là nguyên nhân sinh ra lịch sử hiện tại; và lịch sử hiện tại lại là nguyên nhân tạo ra lịch sử tương lai. Tức lịch sử hiện tại là thành quả của lịch sử quá khứ, thế hệ hiện tại phải gánh chịu những hậu quả do tiền nhân gây ra hay thụ hưởng những điều tốt do tiền nhân gây dựng. Thế hệ hiện tại không thể thay đổi quá khứ để có cuộc sống tốt hơn; nhưng họ có khả năng thay đổi lịch sử hiện đại để xoay chuyển lịch sử tương lai.

Vậy thì tham gia sinh hoạt chánh trị là bổn phận của mọi người dân không chấp nhận dịch chủ tái nô. Ðối với dân Việt trong bối cảnh phá sản về tổ chức xã hội cũng như về con người thì sự tham gia sinh hoạt chánh trị là điều phải làm nếu chúng ta chưa muốn tiêu vong vì nạn Hán hóa.

Trăm hay không bằng tay quen. Ðừng nói tôi không làm chánh trị hoặc tôi không thích chánh trị mà phải tự hỏi là: Ta có phải là người ăn bám xã hội hay không? Nếu không thì ta phải góp phần mình vào sinh hoạt chung của ít nhất là cộng đồng mà ta đang sống (không phân biệt quốc nội hay hải ngoại) để làm cho cuộc sống của cộng đồng tốt hơn, hài hòa hơn, đó là nhiệm vụ của con nguời có tinh thần tự trọng (Văn Lang có nghiã là tự trọng). Trong nước Văn Lang không có người dốt, người lười, người ăn bám xã hội. Trong nước Văn Lang chỉ có người Hào hoa, Phong nhã ; Phóng khoáng, Hào hiệp ; Lịch sự Bặt thiệp.
Bổn phận của 18 triều đại Hùng Vương (2.879BC - 250BC) là phải hoàn tất công tác: Biến liên bang Việt gồm 18 Bộ Lạc thành  nước Việt thuần chủng như ngày hôm nay.
Bộ là vùng và Lạc là đời sống an bình. Vì muốn hạ nhục dân bị trị nên Thực Dân Pháp gọi Bộ Lạc là Tribu. Tribu đúng nghiã là Tù, có ông Tù Trưởng; còn Bộ Lạc có Lãnh Vương được phụ tá bởi Lạc Hầu (quan văn) và Lạc Tướng (quan võ). Khi mất nước thì không có Lãnh Vướng nên Lãnh Tụ kháng chiến gọi là Quân Vương, chữ Quân ở đây là binh lực khác với chữ Quân là vua.

Muốn thay đổi lịch sử hiện tại thì bắt buộc phải biết dự đoán bối cảnh tương lai sẽ như thế nào và mình muốn có chỗ đứng nào trong lịch sử Toàn Cầu Hóa sắp tới? Ăn bám nhân loại hay đưa ra một mô hình xã hội để nhân loại sống trong hài hòa?
Muốn đóng góp cho nhân loại có an bình thì ít nhân dân Việt phải có đất, có quyền tự chủ, có xã hội hài hòa giữa các sắc tộc với nhau thì mới đem chuông đi đấm nước người được. Còn xã hội bê bối như ngày hôm nay : Xuất cảng lao nô đĩ điếm trộm cướp thì chỉ mang cái nhục cho dòng dõi Rồng Tiên.

Muốn đưa ra đề án canh tân con người và đất nước thì phải biết rõ nguyên nhân suy thoái thì mới biết đường thay đổi lịch sử hiện đại; như vậy là bắt buộc chúng ta phải biết rõ lịch sử quá khứ:
Tổ tiên chúng ta từng giữ được quyền tự chủ để phát triển con người và đất nước, vậy tại sao ngày hôm nay chúng ta hư đốn như vầy?

Tóm lại là ta phải nắm vững lịch sử quá khứ thì mới thay đổi được lịch sử hiện tại mà chúng ta có thể làm được.
Ngoài ra chúng ta còn phải biết dự đoán lịch sử tương lai gần và xa thì mới biết thay đổi lịch sử hiện tại theo chiều hướng nào cho tốt nhất.
       Ðó là con đường phải đi nếu muốn sánh vai cùng người.

Không nói thì ai cũng biết là:
       Ý chí phát sinh hành động; nhưng Tư tưởng lãnh đạo hành động.
       Tư Tưởng lạc hướng thì nguy hiểm khôn lường. Tưởng là giúp dân cứu nước mà hóa ra là hành dân, bán nước cầu vinh
       Nhiệt Tình + U Tối = Phá Hoại

Vậy thì:
Thế hệ chúng ta có lạc hồn dân Việt nên mới ra nông nỗi này.
      Vì muốn khôi phục hồn Việt nên trong thời nô lệ Pháp với chánh sách ngu dân thì các cụ nhà ta vẫn làm thơ "CHIÊU HỒN DÂN VIỆT" như Phong trào Ðông Du, Trường Ðông Kinh Nghĩa Thục, cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phan Văn Tường, Nguyễn Thế Truyền..... mà bút tích còn đó.
Coi lại những sách giáo khoa dưới thời nô lệ Pháp hay Việt Cộng ngày hôm nay thì chúng ta chỉ thấy dạy tư duy nô dịch mẫu quốc (Pháp, Nga hay Tàu).

Còn muốn xây dựng tư duy độc lập như Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thì bị ngoại bang sát hại chỉ vì họ không sai khiến được ta.

Nhìn sơ lược vấn đề tự chủ thì chúng ta thấy ngay NHU CẦU CANH TÂN TƯ tưởng là việc phải làm cấp bách thì mới có thể phá bung được những mắt xích nó đưa ta vào mê hồn trận dịch chủ tái nô.

Còn Canh Tân bằng phương tiện nào, theo chiều hướng nào và tới đâu thì đủ là đề tài cần phải thảo luận để cho con đường đi được sáng tỏ. Ðời người rất ngắn ngủi mà việc Canh Tân thì lâu dài qua nhiều thế hệ nên thiết nghĩ là chúng ta hãy phác họa một lộ trình để tiến tới tương lai mong muốn để thế hệ sau còn biết đường nối tiếp. Lẽ dĩ nhiên đường đi gặp nhiểu chông gai; nhưng cản trở ở đâu thi thế hệ ở đó phải dẹp bỏ thì mới dành lại được tự chủ để tiếp tục tiến.

Như vật cản bước tiến của thế hệ chúng ta là đảng Việt Cộng với đường lối nô dịch ngoại bang từ Tư Tưởng cho đến kinh tế kỹ thuật nên chúng ta phải tìm cách dẹp bỏ chúng.
Chúng ta dẹp chúng không phải vì hận thù mà là vì chúng cản bước tiến của dân tộc trong khi thế giới đang tiến nhanh vù vù mà dân ta lại đi thụt lùi. Chứng cớ là: Tư do ngôn luận ngày hôm nay còn bêt bát hơn thời Thực dân Pháp cách đây hơn 100 năm, mà cứ cái đà này thì không tiêu vong sao được?

NGUYÊN  LÝ  VẬN  HÀNH  LỊCH  SỬ
Muốn thay đổi lịch sử hiện tại để xoay chuyển lịch sử tương lai cho con cháu được nhờ thì chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận 4 phần sau đây cho ra nhẽ rồi mới đề ra được chương trình canh tân tư tưởng, nó là nguyên nhân chính của mọi sự canh tân cho hợp thời:
1.   Những nguyên nhân đưa đến thảm họa ngày hôm nay.
2.   Khai dụng vị thế nước Việt trong tranh chấp toàn cầu.
3.   Ðịnh rõ mục tiêu của lịch sử tương lai
4.   Canh Tân Tư Tưởng sao cho hợp thời.

Ðể tránh lãng phí thời gian nên thiết nghĩ là chúng ta cũng nên định cho rõ nghĩa những danh từ sau đây sẽ được lập đi lập lại trong bài này.

Vậy thì:
TƯ TƯỞNG LÀ GÌ?  ......  Tư Tưởng là SUY NGHĨ.
Nghĩa là suy nghĩ cho chín chắn rồi đưa ra đề án giải quyết vấn nạn đương thời. Nếu đề án có giái trị ổn định xã hội thì gọi là học thuyết, người đẻ ra nó thì gọi là triết gia. Các chánh trị gia muốn tôn sùng thì gọi là Chủ Thuyết hay Minh Thuyết.

TƯ TƯỞNG có từ bao giờ? .....  Tiếng nói dùng để diễn tả tư tưởng, vậy thì tư tưởng nhen nhúm phát sinh từ ngày con người có cuộc sống quần cư, sớm lắm là 13.000BC. Tức là từ ngày có nông nghiệp hay du mục.
Tư Tưởng bắt đầu nảy sinh cách đây vào khoảng 15.000 năm

TƯ  DUY LÀ GÌ? ..... Tư Duy là SUY LUẬN.
Nghĩa là luận vần đề cho chín chắn rồi đưa ra kết luận. Ðây là yếu tốt cần phải có thì tư tưởng mới đẻ ra được đề án giải quyết vấn đề.

TRIẾT LÀ GÌ?.....  Triết học là môn học về sự vận hành vạn vật.
Tức nguyên nhân này nằm trong môi trường này thì sẽ sinh ra thành quả kia.
Triết là cái vốn cần phải có thì Triết gia mới sáng tạo ra được đề án hay học thuyết để ổn định xã hội theo một chiều hướng nào đó như: Dân Chủ, Quân Chủ hay Quân Phiệt; mỗi thể chế lại có nhiều phương thức khác nhau.
Tỷ dụ:
-         Công Sản là một chế độ quân phiệt toàn trị, bao vây kinh tế và kiểm soát tư tưởng người dân.
-         Học thuyết Rồng Tiên là một chế độ Dân Chủ Phân Quyền.
-         Chế độ Tản Quyền dưới thời nhà Chu là một chế độ Phong Kiến; chia ra để trị bởi các lãnh chúa với 5 danh xưng Công; Hầu; Bá; Tử; Khanh.
      Các ông Lãnh Chúa lại theo chế độ gia truyền theo mình chọn.
      Phong là ban cho, Kiến là nhìn. Phong kiến là nhìn theo chức tước mà cấp cho một lãnh thổ lớn hay nhỏ để toàn quyền cai trị. Chế độ Phong Kiến không phải là chế độ Quân Chủ.

-         Chế độ Lãnh Chúa ở Âu Châu không phải là chế độ Quân Chủ mà là chế độ Gia Chủ với quan niệm chủ và tớ là: Ðất của Chúa, lúa của trời. Người dân chỉ là những tên tá điền ưng thì ở còn dở thì đi kiếm ông Chúa khác mà nương tựa.
-         Chế độ nhà Trần là một chế độ Quân Chủ Ðại Nghị với quan niệm Toàn Dân Giữ Nước chứ không phải triều đình giữ nước.
Mỗi chế độ lại phù hợp với tình trạng dân trí và bối cảnh lịch sử đương thời thì mới tồn tại được. Do đó nếu ta biết cách tác động để thay đổi não trạng người dân hay bọn bạo chúa, hoặc thay đổi hoàn cảnh lịch sử thì ta sẽ thay đổi được chế độ đó bằng diễn biến hòa bình hay bằng bạo lực là tùy cách thay đổi.

SỨC  MẠNH  CỦA  VĂN  HÓA
Văn Hóa là gì? Văn là đẹp, còn Hóa là chữ tắt của Phong-hóa.
Phong là gió, và cũng là cách ăn ở của con người; Hóa là biến đổi. Vậy thì Văn Hóa là sự biến đổi cách ăn ở sao cho hợp thời nhưng phải đẹp đẽ.
Tỷ dụ: Làm lớn, đi xe công vụ có tài xế lái mà lại mặc quần xà-lỏn đi chân đất như cán bộ 30 trong ngày tiếp thu Saigon năm xưa (30/4/75) nên gọi là bọn Cán Ngố, sâu bọ lên làm người.
Vậy thì: Văn hóa là nếp sống của một tập thể mà ta gọi là cộng đồng, chủng tộc, dân tộc hay nhân loại.
        Nếp sống gồm 2 loại vật chât và tinh thần.

Do đó văn hóa là chất liệu kết hợp toàn dân, vì thế nên việc đầu tiên phải làm của kẻ thống trị là tìm mọi cách để hủy diệt văn hóa của sắc dân bị trị để làm xã hội tan rã mạnh ai nấy sống.
   Nghiệm lại câu chuyện bó đũa của tổ tiên chúng ta thì thấy thật là thâm thúy.

Vậy thì việc làm khẩn thiết của dân bị trị như chúng ta ngày hôm nay là phải cố gắng phát huy những nét đặc thù và hợp thời của nền minh triết Việt: Khí phách Rồng Tiên, Văn Hóa Lạc Hồng để góp phần đem an bình đến cho nhân loại trong thế toàn cầu hóa.

VĂN  MINH

Văn minh là gì?.... Văn minh là sự sáng tạo ra đồ dùng để cải thiện cuộc sống.

Văn minh bắt nguồn từ đâu?..... Sự khởi điểm của nền văn minh nhân loại là biết cách dùng lửa để thui thú đặng để dành cho khỏi thối và sau đó là sáng tạo ra đồ gốm (tức đồ đất nung phát triển và tồn tại cho tới ngày hôm nay như bát đĩa, răng giả bằng sành, gạch ngói....)

Tác động dây chuyền của Văn Minh
Nhờ có văn minh nên loài người mới có cuộc sống quần cư.
-         Cuộc sống quần cư đẻ ra nền Văn Hóa.
-         Văn minh tiến bộ thì loài người có nhu cầu đẻ ra quốc gia để đi xâm lăng hay tự vệ. Tổ chức xã hội gia tăng, phân công từng nhóm chuyên nghiệp nên bắt buộc phải đẻ ra Văn Hiến.
-         Bản Văn Hiến cần phải viết cho gãy gọn nên có nhu cầu đẻ ra Văn Học và Văn Học sinh ra Văn Chương. Văn Chương đòi hỏi giấy bút.

Văn Hiến là bản văn quy định trách nhiệm; bổn phận và quyền hạn của mọi thành viên trong một nước, phúc cùng hưởng mà họa cùng chịu. Ngày hôm nay chúng ta gọi là Hiến Pháp (Pháp có nghĩa là phép tắc của một nước mà mọi người phải theo). Văn Học là cách sống thanh tao nho nhã của con người. Văn Chương là một đoạn văn thanh tao không tục tĩu.

TÓM  LƯỢC  TÁC  ÐỘNG  DÂY  CHUYỀN
Vì nhu cầu sinh sống nên:
       Tinh thần cầu tiến đẻ ra văn minh.
       Văn minh đẻ ra văn hóa.
       Văn hóa đẻ ra văn hiến,
       Văn hiến đẻ ra Văn Học,
       Văn học đẻ ra Văn chương... Văn Chương cần giấy bút


NGUYÊN  NHÂN  THẢM  HỌA.

Năm vừa qua chúng ta đã học bài số 2.10b nói về nguyên nhân suy thoái tư duy để có thảm trạng ngày hôm nay LINK: www.nhanvanviettoc.blogspot.com.
Ở đây chỉ xin nhắc lại là suy thoái bắt đầu từ năm 1427 là năm ông Lê Lợi đăng quang Hoàng Ðế.

1.      Từ thời Hùng Vương (2.879BC) cho đến nhà Hồ (1407), nhà vua cũng như người dân tất cả đều quan niệm rằng đất nước của dân. Dân giữ nước chứ không phải triều đình giữ nước.
Bằng chứng là lá cờ nước Việt có nền, trong khi đó cờ tây Phương không có nền, chỉ vì họ quan niệm về lãnh thổ khác sự suy nghĩ cũa dân Việt.
Khuôn khổ lá cờ tượng trưng cho lãnh thổ, còn nền Vàng của lá cờ tượng trưng cho chủ nhân ông của lãnh thổ.
Dân Việt lấy màu vàng của lụa tơ tầm làm sắc thái dân tộc nên ta mới thấy nhắc lá cờ Vàng của nhị vị anh thư hay của bà Triệu. Sắc thái này đã ghi trong câu chuyện 100 trứng 100 con. Xin coi thêm bài số 2.01 Nguồn gốc lá cờ và bài Rồng Tiên Khai Quốc số 06 trong link: www.nhanvanviettoc.blogspot.com
Vì thế nên khi thay đổi nguyên thủ thì đất nước không bị xáo trộn. Và nhờ biết cách khai dụng nền Văn Hóa vì dân nên Quốc Sư Nguyễn Trãi mới đưa ra Bình Ngô Sách để ông Lê Lợi áp dụng cho đến khi thâu hồi chủ quyền quốc gia vào năm 1427.

2.      Khi ông Lê Lợi lên đăng quang Hoàng Ðế thì vì trí óc hẹp hòi, sợ văn thần chiếm đoạt quyền hành nên mới sát hại văn nhân và chỉ tin dùng võ tướng đầu óc cũng giống ông.
Ðiểm này ông Nguyễn Trãi đã biết trước khi cộng tác. Vì thế nên trong lúc xây dựng lực lượng kháng chiến ông ta đã trương khẩu hiệu : Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần để an lòng quân và dân.

1.      Vì tin dùng võ tướng nên khi chết đi, thái tử còn nhỏ thì cái bọn ngu trung trục lợi này mới tìm cách kéo bè kết cánh để hãm hại nhau, tìm mọi thủ đoạn giết vua để cháu mình nối ngôi đặng còn nhiếp chánh.
       Ðây là khởi điểm của tư tưởng chệch hướng dân tộc, nó còn di hại cho tới ngày hôm nay: Quyền lợi dân tộc đứng sau quyền lợi phe nhóm!

2.      Vì lạc hồn dân Việt nên văn hóa suy đồi để bên trong thì rối loạn, bên ngoài thì giặc Chiêm tấn chiếm đến Nghệ An và sắp vào Thanh Hóa quật mả vua Lê vứt đi. Do đó quần thần mới giết vua và thái hậu rồi đón hoàng tử Tư Thành về làm vua.

3.      Hoàng Tử Tư Thành lên ngôi với miếu hiệu Lê Thánh Tôn (1460-1497) với 2 niên hiệu là Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Ðức (1497).

Vì nhu cầu độc tôn để đánh Chiêm nên Ngài đã thay đổi học thuật với phương châm "Ðất của Chúa, lúa của Trời".
Do đó con cháu mới nghĩ đất nước thuộc về dòng họ nhà Lê. Vì mắt quáng gà, tư tưởng thiển cận nên mới dắt voi về dày mả tổ như Lê Chiêu Thống để được làm vua nô lệ cho thỏa chí báo thù dân tộc phản bội.

4.      Tư tưởng này đã truyền đến Gia Long, nên ông ta đã hiến dâng tổ quốc cho Xiêm (Thái Lan) không xong thì lại mời Chủ Tây đến thống trị. Bản giao ước Versailles còn đó, điều 3 đã nói rõ tư tưởng này.

5.      Lợi dụng văn hóa suy đồi, dân trí thấp kém, tư tưởng vọng ngoại vả cơ cấu xã hội rệu rạo nên năm 1945 Hồ Chí Minh, một tên không cha không mẹ, không tiểu sử nghiễm nghiêm lãnh đạo đất nước nước chủ nghĩa Tam Vô (vô gia đình, vô tổ quốc và vô tông giáo) để tiến tới đại đồng thế giới và tự ý xóa tan biên cương để biến nước ta thành một quận huyện của nước Tàu. Ấy thế mà lại có người nhắm mắt đi theo để phá nước giết dân mà cứ ngỡ là mình yêu nước thương dân!
Riêng khẩu hiệu "Giai Cấp Ðấu Tranh" đã nói lên tinh thần anh em tàn sát lẫn nhau cho ngoại bang hưởng.

Kết luận:
Thảm trạng ngày hôm nay là do lạc hồn dân Việt nên mới có Tư Tưởng vọng ngoại và tư duy nô dịch nó bắt nguồn từ đầu óc vị kỷ của đại vương Lê Lợi, mặc dù Ngài có công rất nhiều đối với đất nước.
Nhưng những công trạng đó không thể bù đắp được những thiệt hại do con cháu của Ngài gây ra. Ðất nước của toàn dân nên người dân có quyền phê phán lịch sử để biết đường thoát hiểm.
Tuy nhiên từ năm 1427 đến nay (2015) đã có 3 phong trào phục hồi Tư Tưởng Việt bằng nhiều cách khác nhau nhưng thất bại cũng chỉ vì đường lối học thuật của vua Lê Thánh Tôn là: Ðất của Chúa, nên Việt Cộng mới ngang nhiên nói:
"Con người là Công Cụ sản-xuất cho đảng hưởng".

1.      Hoàng Ðế Mạc Ðăng Dung đã cải tổ bằng cách Ngoại Thương (hướng ra biển cả) để tìm hiểu thế giới bên ngoài. Chương trình này bị thất bại vì khẩu hiệu Diệt Mạc Phù lê của hai con buôn chánh trị là Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm.... Ðó là cái sai nhầm về đường lối giáo dục của vua Lê Thánh Tôn.

1.      Hoàng Ðế Quang Trung đã chủ trương thay đổi đường lối học thuật để phục hồi tư tưởng: "Toàn dân giữ nước" nên Ngài mới thành lập viện Sùng Chính Học và chiêu đãi văn nhân, hiền tài như ông Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) và ông Ngô Thì Nhiệm.
Nhưng chương trình này đã bị Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long) phá tan với khẩu hiệu miệt thị dân Việt là: "Nôm Na là Cha Mách Qué".

Vì tư tưởng đất nước là tài sản của họ Nguyễn Phúc nên Nguyễn Ánh mới quyết tâm mời ngoại bang, hết Xiêm lại Pháp về phục thù, cầy cho nát giang sơn của tổ tiên để lại với tư duy thiển cận là: Ăn không được thì phá cho hôi.

2.      Chiến lược gia Ngô Ðình Nhu đã thất bại với phương án Tự Vệ là: Xây dựng ấp chiến lược với học thuật Cần Lao Nhân Vị để Cộng Ðồng đồng tiến theo mô hình thời Hùng Vương, nhưng thất bại vì sự đánh phá của Hồ Chí Minh; giống như Gia Long với Tây Sơn vậy.

Một bên thì Tổ Quốc trên hết, một bên thì Xóa Tan biên cương loài người sống thân yêu. Hồ Chí Minh đã quyết tâm biến mộng ước xóa bỏ biên cương để biến nước Việt nội thuộc thành Tàu.
Ấy thế mà lại có nhiều vị khoa bảng sẵn sàng chết để làm nô lệ cho Nga và Tàu mới buồn chứ!!!. Ðúng là lạc hồn dân Việt chỉ vì họ không biết gì về văn hóa và tư tưởng Việt. Nay muốn giải tỏa u-mê cho đám ngu trung này thì thiết nghĩ là không có gì tốt hơn là chương trinh Nhân Văn Việt Tộc.

Ngày hôm nay chúng ta có 2 khối người Việt Hải Ngoại và người Việt Quốc Nội, nhưng đất nước tan hoang, cơ cấu xã hội băng rã, tư tưởng người dân bế tắc. Ðứng về phương diện tư tưởng thì chúng ta phải làm gì và có thể làm được gì để cứu nguy dân tộc.
       Khối người Việt Hải Ngoại phải nghĩ gì và phải làm gì để ăn cây nào thì rào vườn đó; đồng thời cũng phải uống nước nhớ nguồn. Ðây là sứ giả đem lại hòa bình cho nhân loại, bắt đầu bằng sự đóng góp ý kiến của mình để xây dựng cộng đồng hài hòa xung quanh.
       Khối người Việt Quốc Nội phải làm gì và có thể làm được gì để giành quyền tự chủ thì mới canh tân được mọi thứ cho hợp thời.

Ðó là 2 câu hỏi mà chúng ta cùng nhau góp ý để cùng nhau thay đổi lịch sử hiện tại thì mới có lịch sử tương lai tốt hơn.


Khai dụng vị thế đương thời.

Muốn tìm câu giải đáp thì bắt buộc phải thảo luận về thế đứng của dân Việt và nước Việt trong sự tranh chấp toàn cầu hiện tại.
Thế giới cần gì ở chúng ta, và chúng ta có thể làm được gì để có lợi cho cả đôi bên?

Ngày xưa chỉ có Việt với Tàu, nước ta ở thế cô thế mà đã oanh liệt đánh bại chúng rất nhiều lần. Mỗi lần một thế đánh khác nhau. Không phải ăn may mà là dân Việt đã biết khai dụng sức mạnh Tâm Linh mà ta gọi là mưu lược chống Tàu.
Dân ta đã lấy yếu thắng mạnh và đã để lại kinh nghiệm cho chúng ta như sau:
        Lời đức thánh Trần: Lấy đoản binh thắng trường binh. Trên dưới một lòng, toàn dân Sát Thát.
        Lời Quốc Sư Nguyễn Trãi: Khai dụng văn hóa để dùng kế sách Công Tâm, lấy chánh nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân (mưu lược) thắng bạo lực.


        Lời Hoàng Ðế Quang Trung nói với Ngô Thì Nhiệm:
Chuyến này ta kéo quân ra thì chỉ nội trong 7 ngày là quét xong đàn kiến. Nhưng chúng là nước lớn sẽ thấy nhục và tiếp tục binh đao. Ta sợ gì chúng vì ta lấy đoản binh tinh nhuệ chống với đại quân ô hợp; nhưng chiến tranh triền miên dân tình khổ sở ta đâu nỡ.
Nay phải dùng Văn Tài để chấm dứt chiến tranh, đợi 10 năm nữa khi ta xong việc canh tân con người, canh tân đất nước, phục hồi khí phách Rồng Tiên và Văn Hóa Lạc Hồng thì lúc đó ta sợ gì chúng. Việc này phi Thì Nhiệm thì không ai làm nổi. Vậy khanh hãy lo soạn văn trong khi ta đánh, đánh xong thì áp dụng liền kẻo trễ.

        Lời than phiền của Tồng Thống Ngô Ðình Diệm:
Trong thời gian nô lệ cơ cấu xã hội bị tan rã, tư tưởng lệch lạc cuộc sống quá chênh lệch giữa vùng cao nguyên với vùng duyên hải. Kế sách Ấp Chiến Lược và học thuyết Cần Lao Nhân Vị là phương thức tự vệ để xóa bỏ giặc chậm tiến, xây dựng Cộng Ðồng đồng tiến thì lúc đó không cần sự yểm trợ của Mỹ nữa......
Nhưng tiếc thay nhân tài như lá múa thu nên đến các ông Bộ Trưởng còn chưa thông suốt thì làm sao có thể thi hành được? Trông vào đoàn cán bộ Nông Thôn thì phải có thời gian rèn luyện qua thực tập.

Ðó là những khó khăn nội tại và ngoại cảnh mà chúng ta phải vượt qua.

Ngày trước bọn Bắc Kinh lấy thịt đè người, lịch sử vừa qua Bắc Kinh đã khai dụng được sự xung khắc của 2 khối chạy đua vũ khí trong cái mà người ta gọi là chiến tranh lạnh trên toàn thế giới nhưng nó lại cực kỳ nóng bỏng trên quê hương chúng ta.

Ngày nay vị thế chiến lược toàn cầu đã chuyển hướng quay về vấn đề khống chế sự bành trướng hung hăng của Bắc Kinh mà nước Việt lại giữ vị thế chiến lược toàn cầu. Chúng ta là lá chắn mà thế giới đang cần, vậy chúng ta lợi dụng được gì để bảo vệ tự chủ thì mới canh tân được mọi thứ?
Nhìn trên bản đồ thì: Hoa Lục không có lối đi ra Thái Bình Dương, vì thế nên Bắc Kinh gây chiến để chiến hạm của chúng có thể di chuyển trên khắp thế giới với mục đích làm bá chủ thế giới với thể chế quân phiệt toàn trị: One World, one China. Ðó là mộng bá vương của đế quốc với não trạng Trung Tâm Tinh Hoa của vũ trụ (Trung Hoa).

Vậy thì thế giới có chịu để Bắc Kinh thống trị hay không? Lẽ dĩ nhiên là không rồi,vậy thì thế trận ra sao và nước Việt khai dụng được gì?
Ðó là điều chúng ta phải thảo luận rốt ráo với cái nhìn hết sức khách quan, bình tĩnh thì mới tìm ra lối thoát được.


ÐỊA  THẾ  CHIẾN  LƯỢC  TOÀN  CẦU
Hoa Lục quay mặt ra Ðông Hải thì bị chặn lại bởi Triều Tiên; Nhật Bản; Quần đảo Ðiểu Ngư do Nhật và Mỹ đóng quân; và Phi Luật Tân liên minh của Mỹ.
Phía nam quay mặt ra Nam Hải thì bị chặn lại bởi Quần Ðảo Hoàng Sa và Trường Sa, rổi đến Mã Lai; Nam Dương Quần Ðảo, Singapore, Thái Lan và Việt Nam.

Ðó là vòng đai ngăn chặn sự hung hăng của Bắc Kinh đe dọa nền hòa bình của nhân loại. Suy ra thì Bắc Kinh không dám dùng võ lực để chiếm Việt Nam; nhưng Việt Cộng lại là tay sai của chúng.

Vậy muốn làm liên minh vòng đai an toàn thì phải lật đổ bọn Tà Quyền Việt Cộng để giành lại quyền tự chủ thì mới có thể nói chuyện liên minh với các nước trong vùng và đòi hỏi sự viện trợ quốc tế được.

Sở dĩ gọi Việt Cộng là Tà Quyền vì Hồ Chí Minh là cái tên giả, không cha không mẹ và không tiểu sử nên khi xem giỏ bỏ thóc thì không ai tín nhiệm hắn cả.

Hơn nữa từ ngày hắn cầm quyền (02/9/1945) bằng sự lưu manh đến nay thì không những hắn không làm lễ nhậm chức mà ngay cả các tà quyền kế thừa cũng chẳng ai làm lễ nhậm chức cả. Chúng có hứa hẹn gì với dân với nước đâu mà chúng ta đòi chúng phải yêu nước thương dân?

Xét vậy thì:
Hỡi các đảng viên Việt Cộng! Nhất là những lực lượng võ trang đừng bắn vào dân, hãy tức tỉnh, đừng mê muội với khẩu hiệu: "Còn đảng còn mình".
Ai trả lương cho các bạn, nếu không phải là tiền của nhân dân, của đất nước; có ai nuôi chó phản chủ đâu. Hãy thức tỉnh và quay về với dân tộc đi, đừng tự hủy diệt tương lai của chính con cháu các bạn.
Hãy coi con cháu Gia Long như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân; khi nước mất thì cũng đi tù mút mùa như mọi người vậy. Chỉ như chỉ tên sống trên xương máu đồng bào mà không biết nhục như: Ðồng Khánh (2 nước cùng vui), Khải Ðịnh mới nộp đơn xin chức vua bù nhìn.

Ghi chú:
Chữ Dương chỉ biển lớn, chữ Hải chỉ biển nhỏ. Chữ Hà chỉ sông dữ, chữ Giang chỉ sông hiền. 


Mục tiêu của lịch sử tương lai

Mỗi người trong chúng ta đều mong ước tương lai dân Việt một cách mung lung; nhưng tựu chung là muốn dân Việt tồn tại trong thế bình đẳng với người. Không chấp nhận nô lệ bắt cứ một ai.
Sở dĩ người Mỹ, Pháp, Ðức, Nhật đi đâu cũng được người ta cũng kính nể mặc dù trong bụng không ưa; chỉ vì dân họ phần lớn đều là những người đàng hoàng có tấm lòng nhân nghĩa.
Dân Việt cũng là người , vậy tại sao chúng ta lại chịu thua kém họ? Ði đâu cũng bị khinh rẻ; chỉ vì phần lớn dân ta thiếu nhân cách làm người, tức là thiếu tinh thần tự trọng và cầu tiến.

Tóm lại:
Chúng ta mơ ước có một đất nước ở đó người dân làm chủ vận mệnh của mình. Ở đó phần lớn người dân đều có khí phách Rồng Tiên và Văn Hóa Lạc Hồng để đi đâu ai ai cũng kiêng nể mặc dù nước kém mở mang, dân chúng nghèo nàn nhưng không lạc hậu.

Chúng ta còn mơ ước cộng đồng người Việt Hải Ngoại, dù mang bất cứ quốc tịch nào cũng hãy "Uống nước nhớ nguồn" đừng phản bội tổ tiên khước từ gốc gác của mình. Hãy cố gắng làm tròn nghĩa vụ người xưa trao phó là:

Bốn Bể Năm Châu Oai Danh Lạc Việt
Ngàn Năm Muôn Thuở Nức Tiếng Tiên Long.

Ðó là hoài bão của chúng ta, cần nhiếu thế hệ có ý chí và nghị lực mới thành được; và lúc đó ngưòi Việt xứng danh là sứ giả hòa bình của nhân loại. Hãy cố gắng lên đồng bào ơi! Với tinh thần cầu tiến thì mọi chông gai sẽ vượt qua.


Vấn đề Canh Tân Tư Tưởng

Canh tân tư tưởng để làm gì?
Câu trả lời là: Canh tân Tư Tưởng để được sống còn trong cộng đồng nhân loại.

Như trên đã phân tích: Con người có khả năng làm thay đổi lịch sử hiện tại để xoay chuyển lịch sử tương lai tốt hơn.
Tuy Ý Chí phát sinh hành động, nhưng Tư Tưởng lãnh đạo hành động. Tư tưởng mà sai nhầm thì sai một ly đi một dặm. Do đó phải canh tân tư tưởng cho hợp thời, tức canh tân ra sao để cho phù hợp với thế giới toàn cầu hóa này thì mới hy vọng tồn tại được.

Còn Tư Tưởng lỗi thời hay hủ lậu thì chỉ có đợi chờ chết mà thôi. Lý do dể hiểu là ở thời đại văn minh điện toán này mà ta lại mù chữ thì làm sao sống nổi mà không cần người che chở, bảo hộ?
Ðó là luật đào thải thiên nhiên, không nên nhắm mắt như Ðà Ðiểu rúc đầu vào cát khi gặp nguy biến.




TỔNG   LUẬN

Ý chí phát sinh hành động, nhưng tư tưởng lãnh đạo hành động. Do đó phàm làm việc lớn cho đất nước thì luôn luôn phải canh tân tư tưởng, thay đổi tư duy theo nhu cầu của mục tiêu trong môi trường sinh sống đương thời.

Giống như chiếc xe hơi phải luôn luôn cải tiến theo nhu cầu hiện đại để cạnh tranh với các hãng khác, còn không thì nhà máy đóng cửa, nhân công chết đói. Một nước cũng thế.

Hiện nay xã hội Việt đã hoàn toàn tan rã, dân Việt chưa hội đủ yếu tố để kết hợp nên cứ đi trong mê hồn trận: Dịch chủ tái nô vì tư duy nô dịch, tư tưởng lạc hậu mà không hay.

Tư tưởng lạc hướng bắt đầu bằng nền giáo dục đất của chúa lúa của trời thay vì toàn dân giữ nước có từ thời Hùng Vương (2.879BC) tới 1427AD. Vì thế nên khẩu hiệu Diệt Mạc Phù Lê mới có khả năng đánh lừa toàn dân chết cho một nhóm con buôn chánh trị là Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim khởi xướng.
Nhìn lại thì ngày hôm nay dân ta cũng đang rơi vào tình trạng này: Sẵn sàng chết cho chủ nghĩa Tam Vô được đề xướng bởi Việt Cộng. Vì thế nên anh em mới đâm chém nhau để xóa tan biên cương sát nhập nước Việt vào nước Tàu dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh..... Có mù cũng nhìn thấy tương lai bi đát của dân tộc đang tiến mau, tiến mạnh để lên Thiên Ðàng Mù!

Nay muốn thoát ra để ngửa mặt nhìn đời, sánh vai cùng nhân loại thì chỉ còn cách lợi dụng vị thế chiến lược toàn cầu của mình để cầu viện thế giới hỗ trợ cho thế lá chắn của dân Việt; từ đó mới có tự chủ để vươn lên bằng người được.
        Ðó là điều kiện duy nhất mà chúng ta có để thoát hiểm họa tiêu vong.

Nhưng muốn thế giới trợ giúp thì chính chúng ta phải chứng minh là mình có khả năng làm lá chắn chống sự bành trướng của Bắc Kinh, đây không phải là đu giây; vì đu giây thì trước sau chi cũng lại dịch chủ tái nô, mà đây là sự thông minh của dân Việt biết cách khai dụng vị thế để trao đổi nhu cầu hỗ tương.
        Vậy thì chúng ta phải làm gì để nhận được viện trợ có lợi cho cả đôi bên?

1.        Trước hết chúng ta phải thay đổi não trạng, can đảm nhìn nhận những khiếm khuyết đã đưa đến thảm trạng ngày hôm nay. Ðó là nhu cầu Canh Tân Tư Tưởng

2.        Thứ đến là phải đề ra một mô hình tổ chức xã hội cho hợp với thế nước lòng dân thì mới có phương tiện tiến tới mục tiêu bằng những đòi hỏi tối thiểu như sau:
a.       Người dân không phải lo kinh tế thì mới có thì giờ tham gia sinh hoạt cộng đồng nó mang lại ích lợi trực tếp cho đời sống của họ.
b.      Xây dựng cuộc sống hài hòa trong cộng đồng.

Mô hình trước kia là xây dựng làng xóm để tạo cuộc sống hài hòa hàng xóm với nhau, để mọi người thấy việc xã hội là bổn phận của chính mình. Ðây là tạo thói quen tham gia hoạt động chánh trị của xóm làng đến đất nước và nhân loại. Còn việc điều hành công việc xã hội của xóm làng thì thay đổi tuy theo não trạn của người dân, do đó Canh Tân Tư Tưởng cho hợp thời là một nhu cầu cần thiết.

Ngày hôm nay cơ cấu xã hội có thay đổi nên mô hình và cách điều hành cũng phải thay đổi cho hợp thời.
Ngày hôm nay dân Việt có 2 cộng đồng là: Hải Ngoại và Quốc Nội vậy thì bổn phận của mỗi cộng đồng ra sao?
Trước hết 2 cộng đồng này có cùng một nguồn con cháu Lạc Long nên phải hỗ trợ lẫn nhau. Sau đến là mỗi Cộng Ðồng sinh sống ở các môi trường khác nhau nên sinh hoạt phải khác nhau.
        Vậy thì tổ chức và sinh hoạt ra sao để đáp ứng nhu cầu hiện tại?

Sau đây chỉ là một sự gợi ý, xin quý vị đóng góp ý kiến cho đề tài Canh Tân Tư Tưởng được phong phú.

Về cộng đồng Hải Ngoại

Cộng đồng hải ngoại có 2 nhiệm vụ là ăn cây nào thì rào vườn đó, và uống nước thì nhớ đến nguồn.
Tuy rằng mình mang quốc tịch khác và có bổn phận phải góp phần bảo vệ quê hương mình đang sống bằng cách đóng góp nếp sống hài hòa và thanh lịch của người Việt để tạo cuộc sống hài hòa với hàng xóm, đó gọi là hội nhập bình đẳng về văn hóa với xã hội tiếp cư.
Tỷ dụ như:
-         Cách xưng hô, lễ phép trong cách giao tế của dân Việt.
-         Cách làm sáng tỏ nếp sống tâm linh hài hòa, nhân hậu của dân Việt cách tự học để thấm nhuần đặc thù về văn hóa, lịch sử cùng tư tưởng Việt đặng khi có dịp thì trao đổi để đóng góp cách sống hài hòa với lân bang hàng xóm của mình.
Nhất là để chứng minh rằng dân Việt không phải là loại ăn bám xã hội tếp cư..... Hãy làm như bà Dương Nguyệt Ánh (khoa học gia) đã khẳng định trước toàn dân nước Mỹ trong buổi lễ gắn Huy Chương, và nhiều trường hợp khác như Phó Thủ Tướng nước Ðức xuất thân từ một cậu bé mồ côi trong cô nhi viện ở Việt Nam..
Muốn am tường nền văn hóa, lịch sử và tư tưởng Việt thì cũng phải cùng nhau học hỏi, trau dồi kiến thức.

Do đó việc tổ chức các hội đoàn lành mạnh ở trong và ngoài nước là một nhu cầu cấp bách; và phải có sinh hoạt hàng tuần, ít nhất là vào cuối tuần.

Tỷ dụ:
1.      Thành lập nơi giữ trẻ và nơi giáo dục thiếu nhi và thiếu niên cùng với chương trình phục hồi nhân phẩm rõ ràng và theo đúng lịch trình dự trù thì phụ huynh hay thanh niên tham gia mới tin tưởng.
Lẽ dĩ nhiên là phải tuyển người đầy đủ tư cách và kiến thức lãnh phần giáo dục. Không được dạy ẩu với kiến thức khập khễnh lấy từ tài liệu lỗi thời; vì chính các tài liệu này đã dào tạo thế hệ làm mất nước nên không nên theo. Phải sáng tạo ra chương trình giáo dục cần cho nhu cầu ngày hôm nay.

2.      Phụ huynh có thể gửi các em từ 16 tuổi trở xuống trọn ngày để an tâm lo việc khác. Ở trong đó các em được chia thành từng lứa tuổi sinh hoạt với nhau dưới sự dạy dỗ của Thày và Cô. Các em còn quá bé thì phải có người trông nom chu đáo.

3.      Người trông nom trẻ và Thày Cô phải có lương tương đương với công sức của họ. Tổ chức cũng phải có tiền thì mới tiếp tục sinh hoạt được.

4.      Tuy đây là việc làm vì nghĩa, nhưng có thực mới vực được đạo.
Do đó sự đóng góp tài chánh của các phụ huynh gửi trẻ là việc làm phải có; và cũng là nhiệm vụ tương trợ cho nền giáo dục huấn luyện người Việt tốt, biết sống cho mình và sống cho xã hội đã cưu mang mình.

Còn chuyện đóng góp của hội viên hay sinh hoạt gây quỹ không liên hệ chi tới sinh hoạt giáo dục này cả.
Ðây không những là trồng cây theo chương trình Việt Giáo mà còn là một cách đền ơn, trả nghĩa xã hội đã cưu mang mình. Làm được như vậy thì chúng ta mới xứng đáng là sứ giả hòa bình cho nhân loại.

Về cộng đồng Quốc Nội
1.      Trước hết là phải nhìn nhận thân phận hẩm hiu của mình dưới một chế độ Việt Cộng quyết tâm tàn phá tận gốc mọi sinh hoạt của tổ tiên đã vun trồng từ thời Hùng Vương (2.879BC) tới nay.
2.      Thứ đến là quyết tâm phục hồi khí phách Rồng Tiên và Văn Hóa Lạc Hồng.

Như vậy thì trước tiên phải phá bung xiềng xích nô lệ từ tư duy cho đến bao tử để phục hồi lại nhân phẩm và sức sống của dân Việt.
       Tại sao chúng ta lại không đi theo sự chỉ dẫn của trí tuệ của con Rồng cháu Tiên mà lại phải nhờ các xác chết dẫn đường chỉ lối như Mác, Lê, Mao? Bộ không có mấy tên này thì tổ tiên chúng ta không biết sống hay sao?

Muốn như vậy thì cách tốt nhất là thay đổi não trạng, tức canh tân tư tưởng và thay đổi tư duy thì mới có thể xây dựng được Việt Ðạo và Việt Triết một cách đến nơi đến chốn.

a.       Song song với việc lật đổ Tà Quyền Việt Cộng, giành lại Tư Chủ thì việc Canh Tân Tư Tưởng bằng cách khai dụng thông tin hiện đại nằm trong tầm tay của người dân trong nước; chỉ cần có ý chí thăng tiến và nghị lực quyết tâm là làm được những điều mong muốn tối thiểu này.

b.      Liên kết với đồng bào Hải Ngoại để lập phòng tuyến liên minh đòi quyền sống; lẽ dĩ nhiên cũng phải tự mình làm ngoại vận để dư luận và chánh khách thế giới lên tiếng hỗ trợ.

c.       Thành lập những tổ chức hoạt động dân sự ngoài luồng để tập luyện cách điều hành công việc xã hội. Một cá nhân dù siêu quần xuất chúng đến đâu cũng không thể tự mình làm thay đổi được lịch sử hiện tại; nhưng khi các tổ chức ngoài luồng liên kêt với nhau, kẻ xướng nguời họa, kẻ tung người hứng thì chắc chắn sẽ làm sụp đổ Tà Quyển, thay đổi lịch sử hiện tại một cách ôn hòa.

Ðây là kế sách Công Tâm của Quốc Sư Nguyễn Trãi mà nay ta gọi là đấu tranh bất bạo động, hay diễn biến hòa bình không đổ máu..

Ðó chỉ là những góp ý nho nhỏ của soạn giả, vì thế nên chúng ta mới cần những buổi hội luận để tìm cách thoát hiểm tiêu vong cho dân tộc mà sự đóng góp của mọi người rất là cần thiết, dù đây là chỉ trên lý thuyết nhưng nó rất quý cho người áp dụng tiết kiệm được thì giờ nghiên cứu thì thành công sẽ nhanh và chăc chắn hơn là không ai góp ý.

Lời than của quốc sư Nguyễn Trãi:
Tuấn-kiệt như sao buổi sớm,
Nhân-tài như lá mùa thu.
Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần,
Nơi duy-ác hiếm người bàn-bạc.
Ðó là trường hợp của chúng ta ngày hôm nay đấy!
Xin chân thành đa tạ quý vị đã lắng nghe, nay Ban Học Vụ xin được lắng nghe những đóng góp xây dựng của quý vị trong diễn đàn.
----------------------------
THAM  LUẬN (đọc thêm)
Phần I: Những điều cần biết.
Phần II: Lịch sử nhân loại nên biết.
Phần III :  Lối thoát của dân Viêt.

PHẦN I : Những điều cần biết

Nhận xét khái quát:
Tổng Thống NIXON đắc cử với nhiệm vụ rút quân ra khỏi bãi lầy chiến địa Việt Nam do Tổng Thống Johnson 1963-1968 (Lyndon Baines) để lại sau tết Mậu Thân 1968 càng sớm càng tốt.
Trong thực tế thì Tổng Thống Johnson, kế vị Tổng Thống John Fitzgerald Kennedy (1960-1963) bị ám sát ở Dallas (22/11/63 ?). Ông Johnson chủ trương giữ thế thủ cho kỹ trên chiến trường Việt Nam để đánh bại Nga Sô bằng kế sách Ấp Chiến Lược, hát lâu chầu mỏi thì khối Nga Sô tự động tan hàng rã ngũ. Trong khi đó thì ông Kennedy chủ trương dùng vũ khí hiện đại để phá thế lưỡng cực; vì thế nên ông Jognson không đủ khả năng tiếp nối kế sách thắng Cộng bằng cuộc chạy đua vũ khí trên chiến trường nam Việt Nam.
Hơn nữa ông Phó Tổng Thống Johnson không đồng ý với ông Tổng Thống Kennedy trong sách lược chống Nga Sô. Ông Johnson thì chủ chương thủ cho kỹ; còn ông Kennedy thì chủ chương đánh mau đánh mạnh nên 2 ông đã bất đồng chánh kiến về việc hạ sát anh em ông Diệm. Do đó ông Kennedy phải đánh lừa dân Mỹ để giết anh em ông Diệm, dẹp bỏ ấp chiến lược, mở cửa cho Việt Cộng xâm nhận rồi thử kế sách Chiến Dịch Phượng Hoàng. Vì thế nên ông Johnson không biết chi tiết chiến lược của ông Kennedy nhưng vì đã chót cưỡi lưng cọp (vì ông Kennedy bị ám sát) nên phải tiếp nối chương trình dở dang. Bằng cớ là ông Johnson cứ khuyên Tổng Thống Thiệu từ ngày nắm quyền là Trung Lập miền nam đi, đó là chỉ dấu cho thấy ông Johnson muốn lui bước, nhưng vì chủ quan nên dân Việt không nhìn thấy nhược điểm của Mỹ. Do đó, lợi dụng chiến thắng Mậu Thân nhưng thua phản Chiến nên Jonhson kêu gọi hòa đàm mà dân ta chê là nhát như thỏ.

Nhưng vào năm 1968 thì thực sự Mỹ đã thua Nga không những về vũ khí hiện đại mà còn thua luôn về binh phápmất nhân tâm nữa. Nga đã chủ động trong sách lược đầu độc lính Mỹ trên chiến trường bằng ma-túy và phá rối hậu phương bằng đòn phản chiến....Nếu không khéo thì nước Mỹ mất luôn và thế giới đã bị nhuộm đỏ vào đầu thập niên 1980, cả Âu Châu rung rinh với khẩu hiệu thà Ðỏ còn hơn chết. Các nhà tư bản bỏ chạy qua Mỹ với tâm trạng lo sợ, báo chí và sách vở về lịch sử con đó để chúng ta tham khảo.
Khi lên nắm quyền thì Tổng Thống NIXON hứa lui binh bằng cách Việt Nam hóa chiến tranh. Kế sách ngầm là bắt tay với Mao để hoán chuyển chính trường Nga Sô bằng kinh tế tư bản "bóc lột", do đó phải:

Bỏ quần đảo Hoàng Sa và nước Cambodia cho Tàu và bỏ Việt Nam cho Nga để Tàu bao vây Nga; và Nga bao vây Tàu thì mới có thời gian củng cố lại tiềm lực và tìm chiến lược mới.
Vì thế cho nên ngay sau khi mất Cambodia, Mỹ gài cho miền nam lẹ và để lại nguyên trạng sự phát triển kinh tế tự do để thay đổi tâm tư các nước chư hầu của Nga đến thu chiến lợi phẩm (coi tài kiệu của phe Ðông Âu thì rõ).

Cuối cùng thì ông NIXON đã thắng thế mặc dù có sự lủng củng do vụ Watergate tác động.

Thành quả cho thấy là vào năm 1990, khối Nga Sô rụp một cái rầm để có thế giới ngày hôm nay; Mỹ làm bá chủ nhân loại: Siêu cường vô địch vào thời ông Tổng Thống BRUSH bố... Ðể ông Tổng Thống BRUSH con phá của.

Ðó là chuyện quốc tế; còn chuyện của chúng ta thì chúng ta tự lo lấy, đừng vọng ngoại để dịch chủ tái nô mà không hay.

Khối Cộng Sản Quốc Tế tan cái rụp vào năm 1990, đến nay (2014) chỉ còn có 4 nước là Bắc Kinh, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam. Năm nay 2015 CUBA đã tự ý ra khỏi nhóm Cộng Sản Chủ Nghĩa.
Vậy tại sao dân Việt vẫn chưa thoát khỏi vòng kim cô Cộng Sản để tiến theo người nhỉ? Trong khi đó thì tự ca tụng là thông minh vượt bực? Phải chăng dân Việt đã lạc hồn nên mới dùng tái trí vượt bực của mình để tự hủy?

Nhìn thẳng vào sự thật thì chúng ta thấy xã hội Việt hôm nay đã tan rã hoàn toàn về cơ chế tổ chức xã hội lẫn tư duy con người. Ðã 25 năm qua mà vẫn ù-lỳ tụt hậu, cứ cái đà này thì con cháu chúng ta sẽ chịu thảm họa chồng chất không còn khả năng để ngóc đầu lên nổi: Thành quả tự nhiên phải có là Tiêu Vong, hiến đất cho Tàu.

Ở trên đời này không có cái gì tự nhiên mà có cả, phải tranh đấu, phải làm việc mới có tương lai sánh vai cùng nhân loại. Tay làm thì hàm nhai. Tay quai thì hàm chết đói.

Muốn như vậy thì chúng ta phải lái thuyền gối sóng để đừng chìm; phải làm lại từ đầu theo triết lý thiên nhiên của xã hội loài người.

Khi trước chỉ có Việt với Tàu nên nó lấy thịt đè người, mà cha ông chúng ta đâu có chịu thua như thời nhà Trần: Châu chấu lại đòi đá xe, tưởng chừng chấu chết chẳng de xe nghiêng.. Như thời nhà hậu Lê đã chém đầu Liễu Thăng hay thời Tây Sơn đã đuổi quân Tôn Sỹ Nghị chạy về Tàu mà vẫn chưa hết vía: Trống ngực còn đánh liên hồi, mồ hôi còn lã chã chưa thôi.

Nay ta có cả thế giới giúp sức. Vì nếu ta mất với Tàu thì là một đại họa cho nhân loại, vậy chúng ta phải lợi dụng thế đứng lá chắn không cho Bắc Kinh bành trướng quá lố để gây nguy hại cho nhân loại nếu vòng đai lá chắn không cho nó thoát ra Thái Bình Dương bị bục.
Vòng đai đó là: Triều Tiên (Mỹ), Nhật Bản, quần đảo Ðiểu Ngư (Nhật), Ðài Loan (Mỹ), Phi Luật Tân (Mỹ), Mã Lai, Thái Lan và Việt Nam.

Muốn đi từ tình trạng chia rẽ này (vì tinh thần ích kỷ vọng ngoại cầu an) thì con đường vững vàng nhất là phải tự rèn luyện để cứu lấy tương lai dân tộc mình trên 4 trận địa sau đây để khi thời cơ đến thì phải chụp ngay lấy.

Khi đang thất thế lưu vong, thì phải soạn thảo kế sách và âm thầm tu luyện trong hậu cứ an toàn là các nước tiếp cư, lấy sự hậu thuẫn của nhân loại để cổ súy cho các kế sách này (tức là ngoại giao, báo chí, truyền thông.....và cách sống nề nếp của cộng đồng Việt trên nước tiếp cư như chúng ta đang làm là ghi ơn, là vận động cho các dự luật ngày 30/4, lá cờ vàng.....).
Chúng ta thừa hưởng văn minh của nhân loại thì con cháu chúng ta cũng có bổn phận phải góp văn minh của dân Việt cho cộng đồng nhân loại để tránh mang tiếng là ăn bám xã hội tếp cư.
Bốn trận địa phải qua là:
1.      Việt Giáo: Xây dựng Giáo Lý để sống cho xứng đáng làm người Việt ở kỷ nguyên điện toán, dù sống ở trong nước hay ở hải ngoại.
2.      Việt Ðạo: Xây dựng mô hình sinh hoạt cộng đồng để làm phương tiện phát triển sức sống của dân Việt ở kỷ nguyên điện toán.
3.      Việt Triết: Xây dựng văn hóa thượng đẳng của cộng đồng gốc Việt trong cũng như ngoài nước để đóng góp văn minh tinh thần của dân Việt trong mục đích xây dựng xã hội hài hòa giữa con người với nhau.
4.      Học Thuyết thoát hiểm: Ðề ra những phương án để xây dựng xã hội hài hòa với sự hội nhập văn hóa một cách bình đẳng. Khuyến khích nhân loại thi đua cách ăn ở sao cho cao đẹp, đả kích và tìm cách ngăn chặn sự dùng bạo lực để ức hiếp nhau.

Tất cả 4 mặt trận kể trên đều có từ ngày con người biết thành lập binh đội cùng với văn hiến để bảo vệ sự tự chủ. Tức bảo vệ nền Văn Hóa của dân mình chống lại sự xâm lăng của người, nay tạo môi trường cho nếp sống hội nhập bình đẳng các nền Văn Hóa, cùng nhau thi đua nếp sống tốt đẹp của mình thì tự nhiên hết bạo lực.

Ngày trước chưa làm được vì phát minh khoa cho phép; ngày nay làm được vì kỷ nguyên điện toán cho phép nếu chúng ta biết khai dụng mặt trận truyền thông, vì nhân loại ai ai cũng muốn sống thanh bình và an nhàn; chỉ có những kẻ bệnh hoạn tham quyền cố vị thì mới nghĩ cách đi thống trị người khác. Ðó là bể khổ do chính con người tạo ra; nay chúng ta phải tìm cách thay đổi não trạng hủ lậu này. Coi biểu của Quang Trung dâng vua Càn Long về việc đả kích cống người vàng thế mạng Liễu Thăng thì thấy sức mạnh của đầu lưỡi đã hoán chuyển được não trạng hủ lậu của người lãnh đạo.

Hướng soạn bài:

Bài này sẽ được in thành sách dùng làm tài liệu cho chương trình giáo dục khi người dân lấy được chủ quyền, thay đổi chương trình giáo dục ích quốc lợi dân là điều bắt buộc phải làm.

Theo Việt Triết (triết lý sống của dân Việt), thì toàn dân giữ nước chứ không phải triều đình giữ nước. Quan niệm toàn dân giữ nước đã được ký thác trong lá cờ NỀN VÀNG. Màu vàng của lụa tơ tầm là sắc thái dân Việt. Hay trong khẩu hiệu: Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh hoặc trong truyện Rồng Tiên Khai Quốc đã được giải mã và giảng giải trong năm đầu (bài số 06). Quý vị có thể lấy trên trang web: www: nhanvanviettoc.blogspot.com

Tiếp nối 20 bài giáo khoa vừa qua là bài thuyết trình về đề tài: Nhu Cầu Canh Tân Tư Tưởng thuộc về phần thứ nhì (Canh Tân Tư Tưởng) của chương trình 7 năm. Bài thuyết trình này gồm 3 phần:
1.      Phần thuyết trình dùng làm đề tài thảo luận.
2.      Phần Tham Luận do sự đóng góp của nhiều người có thiện ý.
3.      Phần đóng góp của các tham dự viên trong buổi hội luận.

Vì nhu cầu khai thông bế tắc tư tưởng để thoát khỏi hiểm họa tiêu vong, Hán hóa, nên chúng ta mới có chương trình Nhân Văn Việt Tộc.
Chúng tôi chỉ là những người đề xướng, muốn thành công thì cần có sự phụ họa của những người còn thiết tha với tương lai dân tộc. Người phụ họa là người tiếp tay không những vun bồi chương trình cho thật phong phú mà còn là người phổ biến và giảng dạy cho thế hệ trẻ trên dưới 20 tuổi vì trong tương lai các em sẽ chánh thức là chủ nhân ông của đất nước.
Lúc đó nếu các em được trang bị đầy đủ tinh thần Việt tộc thì các em sẽ là những vị cứu tinh dân tộc, còn không thì tư duy sẽ suy thoái để từ từ tiêu vong vì những món nợ chồng chất về giáo dục bắt ngồn từ năm 1427 (thời Lê Lợi lên ngôi) với quan niệm "Ðất của Chúa, Lúa của Trời", người dân chỉ là những tên nô lệ cho nhóm độc quyền cai trị hưởng thụ. 
Vì tư tưởng nô dịch đã thấm sâu vào máu quá lâu, nên tên lưu manh Hồ Chí Minh dù mang tên giả, không cha không mẹ, không tiểu sử, cũng đã đánh lừa được nhiều nhà trí thức theo hắn một cách mù quáng.

Bằng cớ là hắn đã hô hào một cách ấu trĩ như sau mà cũng có người theo một cách cuồng nhiệt:

      Con người là công cụ sản xuất (tức nô lệ), thế mà cho đến ngày hôm nay (2014) nhà đại Toán Học Ngô Bảo Châu còn tuyên bố môt cách mù quáng rằng: Tôi chỉ là lao động trí thức! Vậy thì ai là người lãnh đạo trí thức? Không lý hắn lại tự đặt mình dưới sự lãnh đạo của tên Nguyễn Tấn Dũng chưa qua khỏi bậc tiểu học hay sao?

      Tiến tới chủ nghĩa Tam Vô (vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo) để : Con tố cha, vợ tố chồng, anh em đâm chém nhau như thù nghịch. Tam vô là chủ nghĩa vô luân của xã hội loài thú.

      Hô hào giai cấp đấu tranh. Tức kích động người Việt đâm chém nhau một cách hăng say để tự diệt cho Tàu hưởng!

Người phụ họa xây dựng tinh thần Việt tộc và Tư Duy độc lập không nhất thiết phải là nhà khoa bảng hay trí thức, mà chỉ cần có thiện chí và nghị lực là đủ.
Vì các vị khoa bảng hay trí thức hiện thời, phần lớn đều không biết gì về môn Việt học cả. Không những rất ít vị để tâm nghiên cứu Tư tưởng người Việt và sinh hoạt trong xã hội người Việt từ ngày lập nước Văn Lang (2.879BC) đến ngày hôm nay, mà lại còn dè bửu là hoài vọng viển vông.
Lý do mê muội:  Trong chương trình giáo dục và sinh hoạt ngoài đời không có môn Việt học, vì môn này đã bị cấm học từ thời Gia Long (1802) cho đến Việt Cộng ngày hôm nay. Mục đích của Tà Quyền là: Tẩy não để nhồi nhét tư duy nô dịch, phỉ báng tổ tông thì họ mới ngự trên trên ngai vàng với sự hậu thuẫn của ngoại bang được.
Họ chủ trương là phải nhờ cái xác chết khô của ông Khổng Tử, ông Mác, ông Lê, ông Mao hay ông Tây ông Tàu nào đó thì dân Việt mới biết cách sống.


Vì xã hội bế tắc như vậy nên mới có chương trình Nhân Văn Việt Tộc để khai thông tư tưởng, xây dựng tư duy độc lập thì mới kết hợp sức mạnh dân tộc được.

Vậy thì: Nhân Văn Việt Tộc là gì?
Nhân Văn Việt Tộc là học làm người Việt tốt, biết cách sống cho mình và sống cho người. Sống ngang vai với nhân loại.

Tại sao phải có chương trình này?
Một nhóm nghiên cứu sử Việt thấy cần phải giải tỏa bế tắc tư tưởng do bọn thống trị cố tình bóp méo Việt Sử một cách rất tinh vi nên chúng ta có bổn phận phải vạch ra những mâu thuẫn ngay trong bản văn để phục hồi hào khí chánh đáng của tổ tiên, và đồng thời giải tỏa những ngộ nhận tương tự như:
"Dân Việt sinh ra để làm nô lệ cho người, văn hóa Việt từ Tàu mà ra, tổ tiên chúng ta đã sát hại dân Chiêm và chiếm đất của dân KHMER".

Trong thực tế thì dân Việt sinh ra để đem cuộc sống hài hòa cho nhân loại, văn hóa Tàu từ Việt mà ra..... và nhất là dân Việt hội nhập với dân Chàm để tạo thanh bình, đất rộng người đông; và dân Việt chưa hề đụng độ với dân Chân Lạp (Khmer) vậy thì sao lại gọi là chiếm đất của nhau được. Trước năm 1471 thì đồng bằng sông Cửu Long chưa có, chưa có luật chủ quyền trên thềm lục địa nên dân nào khai phá đến đâu thì hưởng đến đó. coi bài số 2.09 (năm thứ nhì, bài số 9) với chủ để "Hội Nhập Chiêm-Việt " Link www.nhanvanviettoc.blogspot.com

Bằng chứng tư tưởng bị đầu độc:
Năm 1427, trong bài Bình Ngô Ðại Cáo quốc sư Nguyễn Trãi đã dõng dạc tóm lược lịch sử dân Việt từ thời Hồng Bàng vỏn vẹn trong 2 câu:
"Duy ngã Ðại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang."

Diễn nghĩa là: Chỉ có nước Ðại Việt của Ta, thực sự đi vào từng tiểu bang một thì tất cả đều có nền văn hiến nhân bản của giống người (tức văn hiến của nếp sống nông nghiệp)...... Còn nước mi là văn hiến của loài thú theo nếp sông du mục, mạnh được yếu thú, lấy thịt đè người.
Khoa học ngày hôm nay (2015) đã minh xác lời nói này là đúng với sự thực về lịch sử của nước Văn Lang.

Như thế thì thấy rõ là thế hệ cha ông đã bị đầu độc tư tưởng nên mới có tư duy nô dịch là phải có "bác Mác, bác Lê" mở đường khai trí nên chúng ta mới biết đường sống trong nô lệ chủ thuyết của kẻ thống trị....... Còn trước đó thì tổ tiên chúng ta không biết an phận, điếc không sợ súng nên mới dám đánh Tàu chạy thục mạng phải chui vào ống đồng dưới sự reo hò của các nữ binh như lời nói của Gia Long trong biểu cầu xin phong vương có câu ươn hèn khiếp nhược như sau: "..... bọn loạn tặc Tây Sơn đã dám làm cho quân của Thiên Triều bỏ chạy tán loạn, nay trời đã vật chúng chết rồi....... "

Di tích còn đó:
Bạch Ðằng, Vạn Kiếp, Chương Dương, Chi Lăng, Ðống Ða, Rạch Gầm Soài Mút......  Những chiến thắng này thì sử gia của chúng ta trong thời kỳ nô lệ không được nói tới.
Ví thế nên ngày hôm nay (2015) Việt Cộng tay sai Bắc Kinh, không những đã dấu nhẹm trận Hải Chiến Hoàng Sa, Mạc Ga và cuộc chiến biên giới .... mà còn ra tay đàn áp những nhà yêu nước nữa. Ðó phải chăng là cái nhục cho toàn dân? Có nên nhổ bỏ cái gai ngáng cẳng canh tân con người này hay không?

Góp gió thành bão:
Biết mà không nói là đắc tội với dân tộc nên chúng tôi nói ra để thế hệ kế thừa biết đường thoát hiểm. Sự hiểu biết của nhóm chúng tôi có hạn mà nhu cầu tìm hiểu Lịch Sử, Văn Hóa và Tư Tưởng thuần Việt lại bao la nên chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các nhà: Sử học, Việt học, Triết học (Tư tưởng), Khảo cổ học hãy tiếp tay với chúng tôi để tạo một số vốn thoát hiểm tụt hậu cần phải có cho hậu thế mà chính thế hệ chúng ta đã để lại gánh nặng cho chúng.
Chúng ta phải trang bị cho các em thanh thiếu niên những hành trang đầy đủ về môn VIỆT HỌC (học về người Việt và đất Việt) trước khi các em bước chân vào đời; vì sau này chính các em sẽ là chủ nhân ông của đất nước: Tre già; măng mọc.
Nếu vốn liếng ít ỏi thì khó mà tranh đua được với nhân loại như Mỹ, Pháp, Ðức Nhật (coi nền giáo dục thanh thiếu niên của họ thì biết).... còn vốn-liếng xung-túc thì cuộc sống sẽ phơi-phới sánh vai cùng các dân tộc tân tiến nhất nhì trên thế giới.

Ðời sống của con người rất ngắn so với đời sống của một dân tộc; nếu chúng ta không muốn con cháu chúng ta sống trong tủi nhục, ươn hèn thì hãy tìm cách phục hồi Khí Phách Rồng Tiên và Văn Hóa Lạc Hồng mà chính chúng ta đã đánh mất từ lâu rồi.
Chương trình sinh hoạt:
Ðể giải tỏa bế tắc của ngành giáo dục nên chúng ta mới có chương trình Nhân Văn Việt Tộc.
Mỗi năm sinh hoạt 10 tháng với mục đích là: Thoát hiểm để sánh vai cùng nhân loại ở kỷ nguyên điện tử này (toàn cầu hóa). Phần học này thuộc về Việt Giáo.
Ngoài ra còn phần Việt Ðạo, Việt Triết và cách sáng tạo Học Thuyết thoát hiểm của người Việt nữa, những phần này sẽ bàn sau.
      Phần Việt Giáo cần 7 năm tu luyện và được chia làm 2 phần là:

Phần A: Gồm 2 năm học dưới dạng Giáo Khoa dùng cho thế hệ Thanh Thiếu Niên nam nữ.
-          Năm thứ nhất học về Văn Hóa thuần Việt để kết hợp toàn dân, xây dựng tư duy độc lập.
-          Năm thứ nhì học về lịch sử Việt do chính người Việt soạn thảo để gây vốn thoát hiểm cần phải có. Vì thế nên bài soạn phải có tính cách khách quan thì cái vốn đó mới có giá trị để canh tân đất nước một cách hữu hiệu được.

Phần B: Gồm 5 năm viết dưới dạng thuyết trình vì cần sự đóng góp của toàn dân trong giờ Hội Luận để tìm cách thoát hiểm tiêu vong do sự tụt hậu mỗi ngày mỗi nhiều.
Năm thứ ba là năm Hội Luận về đề tài Tư Tưởng dân Việt với 10 bài thuyết trình:
       Từ tư tưởng dân gian đến tư tưởng của kẻ thống trị.
       Từ hùng khí của những trang sử lẫm liệt để so sánh với tư tưởng nhu nhược của bọn cầm đầu và tư tưởng buông xuôi của người dân nên mới lún xâu vào vòng dịch chủ tái nô.
       Xin xem chương trình dự trù trong 7 năm trên link www.nhanvanviettoc.blogspot.com

Xét như vật thì chúng ta cần phải đề ra lộ trình:
        Chương trình xây dựng con người đến nơi đến chốn.
        Ðội ngũ giảng sư chuyện nghiệp.
        Phương tiện giáo dục tân tiến.

Hai năm đầu là xây dựng ý chí vươn lên bằng người.
Năm năm kế tiếp là xóa bỏ u tối trong lòng mà cha Lạc Long gọi là Giặc U Tối cần phải quyết tâm tiêu diệt(coi bài số 06: Rồng Tiên Khai quốc, link: www.nhanvanviettoc.blogspot.com)

Như vậy thì chúng ta thấy rõ là: Canh Tân Tư Tưởng là một nhu cầu cấp bách để thoát hiểm Hán Hóa vì tụt hậu tinh thần lẫn suy thoái vật chất.

Vấn đề được đặt ra là Canh Tân Tư Tưởng để làm gỉ? Canh Tân theo chiều hướng nào? Tới đâu thì đủ? Và Canh Tân bằng cách nào cho hiệu nghiệm? Ðó là chủ để của buổi hội luận ngày hôm nay. Xin mọi người đóng góp, vì đây không phải là việc làm của một người hay một nhóm; mà là công việc của cả thế hệ đóng góp mới tìm ra lối thoát.

Ai cũng biết là cuộc sống của xã hội loài người càng ngày càng phức tạp vì văn minh khoa học thăng tiến không ngừng nên mọi việc đều chòng chéo lên nhau với sự hỗ tương ảnh hưởng cửa nhau. Muốn giải quyết vấn đề thì phải tìm hiểu nguyên nhân chánh xác rồi mới tìm ra được kế sách thoát hiểm. Do đó phải phân vùng rõ ràng thì mới nhìn thấy rõ ràng những việc đã qua: Vì đâu nên nỗi? Và từ đây mới hoạch định chương trình thoát hiểm.

Trước hết chúng ta hãy luận về một vài ngôn từ cần thiết..

LUẬN  VỀ  TƯ  TƯỞNG

Vậy thì Tư Tưởng là gì? Có từ bao giờ? là câu phải trả lời trước tiên.
A/Tư Tưởng là gì?
Tư Tưởng là sự suy nghĩ để đưa ra một đề án tốt nhất để thi hành với mục tiêu mong muốn mà mình dự đoán.

Tư tưởng thì ai cũng có để giải quyết vấn đề cá nhân, gia đình cho đến dân tộc và nhân loại. Ở đây chúng ta chỉ bàn đến tư tưởng có ích lợi cho sự an bình của đất nước và của nhân loại mà thôi.
      Trong thế toàn cầu hóa thì đất nước là một đơn vị căn bản trong cộng đồng nhân loại.
Theo tiếng Việt thì:
Tư Tưởng là: SUY NGHĨ.
Nghĩa là suy nghĩ rồi đưa ra đề án giải quyết vấn nạn hiện có để tiến tới mục tiêu mong muốn.
Mục tiêu đúng hay sai là chuyện phải dùng đến Tư Duy Ðộc Lập để phán xét. Ðề án đưa ra tốt hay xấu là tùy ở trình độ Triết cao hay thấp.

B/- Tư Tưởng có từ bao giờ?
Tư Tưởng bắt đầu nảy sinh cách đây vào khoảng 15.000 năm.
Vì: Tiếng nói dùng để diễn tả tư tưởng, vậy thì tư tưởng có từ ngày con người biết nói.
Con người biết nói từ thời điểm nào?
Khởi thủy thì con người là con vật bị bạc đãi, chạy chậm, vồ hụt, da mỏng...hữu sinh nhưng phần lớn là chêt yểu nên sống lẻ tẻ, chỉ có tiếng kêu chứ chưa có tiếng nói. Lý do là không có nhu cầu và chưa có tư tưởng, hành động theo phản xạ chứ không theo lý trí.....mà lúc đó bộ óc trống rỗng nên làm gì có lý trí.
Vì bị bạc đãi nên bộ óc phải làm việc để thoát khỏi cảnh thú vật, do đó mới sáng tạo ra lương thực để bảo đảm sự sống. Lúc này cần cuộc sống quần cư nên phát sinh ra tếng nói, mới đầu còn đơn sơ về sau theo nhu cầu mới phong phú.
Theo sự nghiên cứu của ông Setephen Oppenheimer thì nông nghiệp có sớm lắm là vào khoảng 13.000 BC.
Vậy thì tiếng nói có sớm lắm là cách đây (năm 2015) khoảng 15.000 năm. Lúc này tư tưởng mới bắt đầu nảy sinh.

LUẬN  VỀ  TƯ  DUY
Tư Duy là: SUY LUẬN.
Nghĩa là kết luận sự việc đã xảy ra sau khi điều nghiên kỹ càng thành quả của nó; hoặc đã xảy ra hoặc trong dự kiến thi hành dự án.

LUẬN  VỀ  TRIẾT
Triết học là môn học về sự vận hành vạn vật.
Nguyên nhân này nằm trong môi trường này thì sẽ sinh ra thành quả kia mà ta gọi là thuận lý.

Muốn đẻ ra đề án để tạo sự an bình cho đất nước thì Triết gia phải có cái vốn về Triết và các yếu tố do Tư Duy Ðộc Lập của mình hay của nhóm mình cung cấp.
Tỷ dụ: Muốn giải một bài toán thì bao giờ cũng phải có một số yếu tố (facteurs donnés) và một số định lý (théorèmes; nguyên lý vận hành) thì thí sinh mới đưa ra kết luận của mình được.
Vậy thì Tư Duy cung cấp yếu tố và Triết cung cấp các định lý để Tư Tưởng biết đường tạo ra đề án để giải quyết một vấn đề nào đó.

Ðề án có giá trị ổn định xã hội thì gọi là HỌC THUYẾT, còn ít giá trị thì gọi là phương án.
Về phần nhà cầm quyền, muốn cho sáng giá thì gọi đó là Chủ Thuyết, tức học thuyết chánh phải theo. Như Việt Cộng gọi chủ nghĩa Mác Lê là Chủ Thuyết Mác Lê.
Về phần người dân muốn đề cao thì gọi đó là Minh Thuyết, Minh Triết. Chữ minh có nghĩa là sáng chói.

Minh Thuyết hay Minh Triết thì có nhiều, nhưng Chủ Thuyết chỉ có một.

SỨC  MẠNH  CỦA  VĂN  HÓA

Văn Hóa là tiếng Tàu, văn là đẹp, còn Hóa là tiếng nói tắt của tiếng Phong-Hóa. Phong là gió hay là cách ăn ở như Phong độ, Phong lưu, Phong cách, Phong thái..... Hóa là thay đổi. Vậy thì Văn Hóa là thay đổi cách ăn ở cho hợp thời một cách đẹp đẽ; tức là cách sống thanh tao nhẹ nhàng, thoang-thoảng như gió mùa thu.

Người Việt mình gọi là Nếp Sống, tức sống riết nó thành nếp rồi, cứ sự kiện này thì phản ứng như thế này nó nằm trong tiềm thức để có phản xạ tự  nhiên.
Vậy thì rõ ràng Văn Hóa thuần Việt là yếu tố để kết hợp toàn dân Việt với nhau, vì có cùng một Tâm Hồn Việt (tim và óc Việt)
Tỷ dụ: Người Tàu khi ra đường thì gọi nhau bằng NGỘ và NỊ, người Mỹ thì YOU và ME.
Trong khi đó người Việt chào hỏi nhau thì phải xưng hô theo vai vế gia đình, mặc dù người đó chẳng có máu mủ chi với ta cả. Nhưng vì tinh thần đồng bào nên ta coi họ như người nhà. Vì thế nên tùy theo môi trường lúc thì ta gọi là bác, khi thì ta gọi là anh hay là thày (dạy học) Coi bài họ về cách xưng hô trong xã hội Việt. Cách xưng hô độc đáo này phát sinh vào khoảng 600BC (www.nhanvanviettoc.blogspot.com -bài số 7 thuộc về Văn Hóa Thuần Việt)


LUẬN  VỀ  VĂN  MINH
Văn Minh là sự sáng tạo ra dụng cụ mới để cuộc sống được nhàn tảng hơn. Văn Minh đầu tiên của loài người là biết cách tạo ra lửa và biết dùng lửa để làm đồ gốm (đồ làm bằng đất nung) để luộc tôm, cá và ngô, khoai, lúa. Từ đây mới sáng tạo ra nghề Nông để bảo đảm cuộc sống và tiến dần cho đến kỷ nguyên điện toán ngày hôm nay...và còn tiếp tục tiến xa nữa để cuối cùng đi đến tận thế.
Ðó là quy luật thiên nhiên nếu loài người không biết dừng lại để hưởng thụ thì sẽ chết vì bội thực. Ðề tài này sẽ bàn vào năm thứ 3 của phần Canh Tân Tư Tưởng (tức năm thứ 5 của chương trình Nhân Văn Việt ộc)

Ảnh hưởng của Văn Minh:
Văn Minh bắt buộc nếp sống vật chất phải thay đổi theo phương tiện mới; sự thay đổi này kéo theo sự thay đổi Tư Duy và Tư Tưởng cho hợp thời kẻo bị đào thải vì lỗi thời và lạc hậu.
Ðiển hình là bọn Cán Ngố khi tiếp thu Saigon: Ngồi xe công vụ có tài xế riêng mà lại đi đất, mặc quần xà-lỏn hay mặc áo bà ba xem nó khôi hài ra sao ấy.
Hoặc mua băng vệ sinh rồi chia nhau dán lên mồm làm "khẩu trang" chống không khí ô nhiễm môi sinh...... chỉ vì ngoài Bắc gọi khẩu trang là Băng Vệ Sinh. Dưới thời Hồ Chí Minh, ngoài đó Phụ Nữ ở truồng tô-hô, mặc váy để đi tiểu tiện đứng ngay giữa chợ kéo váy ra rồi tè một bãi, nên làm gì có vải để dịt cái lá đa của mình. Hơn nữa "Bác Hồ" cấm vì đó là thành phần tiểu tư sản, phí phạm.

Vậy thì canh tân tư tưởng và thay đổi tư duy là điều bắt buộc phải làm nếu chúng ta không muốn làm trò khỉ trong xã hội văn minh như Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng xuất ngoại vì công vụ đã làm trò hề, khoa chân múa tay, ăn nói lắp bắp để cho thiên hạ cười, báo chí rỡn cợt.

LUẬN  VỀ  VĂN  HIẾN
Văn Hiến là bản văn quy định trách nhiệm, bổn phận và quyền hạn của mọi thành phần trong một quốc gia. Nay chúng ta gọi là Hiến Pháp (Văn là đẹp, Pháp là khuôn phép phải theo). Khi thành lập quốc gia thì mới cần Văn Hiến để dễ bề quản trị việc nước.
Vậy thì:
        Vì có tinh thần Cầu Tiến nên mới có Văn Minh.
        Vì Văn Minh tiến bộ nên mới có Cộng Ðồng (cuộc sống quần cư).
        Vì nhu cầu nên cuộc sống quần cư đẻ ra tiếng nói và văn hóa.
        Học Thuyết phát sinh:
Ðời sống cứ thế thăng tiến nên có nhu cầu thành lập Quốc Gia để xâm lăng hay để tự vệ. Cả hai bên đều phải lập binh đội, do đó phải đẻ ra học thuyết xâm lăng là tự cho mình cái quyền đi bóc lột người dưới chiêu bài KHAI PHÓNG và học thuyết tự vệ là bảo vệ quyền sống theo văn hóa của dân mình.
        Văn Hiến ra đời:
Vì xã hội có tổ chức nên bắt buộc phải có vấn đề phân công cho rõ ràng nên mới đẻ ra Văn Hiến (nay chúng ta gọi là Hiến Pháp)

LUẬN  VỀ  VĂN  HỌC
Văn học là học cách sống tao nhã của con người. Bản văn hay thì được xếp vào loại văn học.
Văn học là hình (thực thể), còn bản văn là cái bóng. Giống như chữ viết để ghi lại tiếng nói. Tiếng nói ở thể động, còn chữ viết ở thể tĩnh. Hai trạng thái động tĩnh khác nhau nhưng lại mang cùng một thông điệp nên người ta vẫn lẫn lộn hai trạng thái là một. Tỷ dụ như tôi viết chữ Việt thì lại nói là tôi viết tiếng Việt; hoặc tôi đọc chữ Pháp thì lại nói là tôi đọc tiếng Pháp... Hay tôi uống một hụm nước thì lại nói là tôi uống một miếng nước (miếng chỉ chất đặc cầm được, còn hụm chỉ chất lỏng không cầm được).


Tóm lại cho dễ nhớ:
-         Văn Minh sinh ra Văn Hóa.
-         Văn Hóa đẻ ra Văn Hiến.
-         Văn Hiến tạo ra Văn Học.
-         Văn Học sinh ra Văn Chương.
-         Văn Chương cần bút tự.
-         Bút tự cần sự phát minh ra giấy.

Lúc đầu viết trên mành-mành tre; đi đâu thì cuốn lại rồi sách đi nên gọi là CUỐN SÁCH vẫn còn dùng cho tới ngày hôm nay. Ðó là thời kỳ đồ sắt (#600BC) ở vùng có tre có nứa, tức vùng nhiệt đới ở phía nam Hoa Lục; như vậy thì văn hóa và văn minh của người Tàu bắt nguồn từ văn hóa và văn minh của dân nông nghiệp.
Vì chúng là dân du mục nên chúng phát triển nền văn hóa nhân bản của dân nông nghiệp thành văn hóa của tập đoàn bành trướng bằng võ lực..... Giống như người Tây Phương đã lợi dụng kỹ nhệ thép để đi thống trị các sắc dân hiền hòa trên thế giới.

Vì văn minh khoa học thăng tiến không ngừng nên sự suy nghĩ phải thay đổi cho phù hợp với bối cảnh lịch sử hiện tại, còn không thì sẽ tiêu vong vì lạc hậu và lỗi thời.

Nói một cách văn vẻ thì nếp sống thay đổi nên phải Canh Tân Tư Tưởng và thay đổi Tư Duy để thăng tiến cùng nhân loại; còn không thì sẽ tiêu vong vì lỗi thời và lạc hậu.



PHẦN II : Lịch sử nhân loại nên biết

Biến thái văn hóa nhân loại.

Con người có mặt trên trái đất từ 2 triệu năm nay. Da mỏng lại không có lông ấm nên chỉ sống được ở xứ nóng mà thôi. Khởi thủy ở phía nam SOMALIE ngày hôm nay (coi tài liệu bước chân loài người (JOURNEY OF MANKIND) của ông Giáo Sư Stephen Oppenheimer 2003; link www.bradshawfoundation.com/journey/timeline.swf

Lúc đầu sinh sống như loài thú, chia nhau đi săn mồi là trái cây, tôm cá mắc cạn nên chưa có tư tưởng và tiếng nói. Chỉ có tiếng kêu gọi đàn mà thôi.
Nay chúng ta chia ra làm nhiều thời kỳ theo tiến bộ văn minh để nghiên cứu cho dễ; chứ thực ra nếp sống chồng chéo lên nhau nên, khó nghiên cứu như hiện nay trong xã hội văn minh (nếp sống thượng đẳng) còn có những người vẫn sống theo nếp sống cổ xưa (trung đẳng hay hạ đẳng chẳng hạn).

Thời kỳ sơ khai:
Kiếm ăn bằng 2 bàn tay...đó là nền Văn Hóa Sơ Ðẳng. Hiện nay ở trên trái đất vẫn còn có những khu vực ở đó con người không cần kim loại như dao kéo.... Họ sống vi vu trên ngọn cây và cảm thấy thích thú và hạnh phúc..

Thời kỳ đá cuội:
Vì chạy chậm, vồ mồi hụt nên mới xúm nhau lại lấy đá vừa tầm tay chọi thỏ, gà, chuột cáo...... để chúng bị thương rồi chạy đến vồ, đập chết để ăn sống nuốt tươi như loài thú hiện nay.

Thời kỳ đá ghè:
Ðá vừa tầm tay kiếm không ra nên phải ghè cho nhỏ lại. Vì ghè quá mạnh nên tóe lửa bắt vào lá khô bốc cháy. Lúc này dùng lửa để thui thú cho lâu thối. Mục đích là để dành ăn dần chứ không phải thui để ăn ngon như ngày hôm nay. Vì lúc đó ăn thịt tươi vừa thơm vừa có vị; còn ăn thịt thui thì khô, vừa mất mùi vị lại vừa cứng.

Thời kỳ đồ gốm:
Coi lịch sử đồ gốm của nhà nghiên cứu Bùi Ngọc Tuấn trên link: www.dogom/bui ngoc tuan thì chúng ta sẽ thấy đam mê vì từ đây suy ra được sự tiến bộ của văn minh nhân loại, tư tưởng, tiếng nói, chữ viết, nếp sống và nhiều điều khác nữa; từ đây chúng ta có thể ước đoán ra tiến trình toàn cầu hóa sẽ ra sao

Ðây là khởi điểm thoát khỏi ngục tù thiên nhiên, trời sinh sao thì an phận làm vậy. Con người đã tinh khôn và biết cách dự trữ thực phẩm rồi sáng tạo ra thực phẩm....thay đổi môi sinh, làm náo loại thiên nhiên.

Lúc ban đầu nặn đất sét bằng tay, nung ngoài trời dùng để luộc tôm luộc cá cho khỏi tanh.
Về sau khôn hơn nên nặn bằng đất sét trộn với cát, làm bằng bàn xoay, có trang trí bên ngoài và nung trong lò. Sau đó tráng men là bùn lỏng; về sau tiến bộ nên chế ra men tốt hơn và đẹp hơn và cứ thế mà tiến lên nước men như ngày hôm nay.

Nhờ có gốm vân thừng, nghĩa là bên ngoài lấy dây thừng ấn vào trước khi nung nên chúng ta suy ra là ở thời điểm đó loài người đã biết lấy dây leo để bện thành thừng trói thú. Một đầu cột chặt vào gốc cây, đầu kia làm một cái thòng lọng. Ðợi lúc chú bò ngủ cạnh gốc cây thì đem móc vào cẳng rồi bỏ chạy; thế là chú bò giật mình tỉnh dạy lấy chân ngóc ngóc để thòng lọng thít vô. Vậy là chú bị trói vào gốc cây; chừng nào đói thì ngả thịt.

Thời kỳ nông nghiệp (13.000BC):
Ðây là thời kỳ tạo ra thực phẩm. Ở thời điểm này nhân số trên toàn thế giới chưa quá 3 triệu người.

Khi biết dùng lửa rồi thì con người mới đi khắp nơi trên địa cầu để kiếm ăn.
Theo nghiên cứu của ông Stephen Oppenheimer thì thời kỳ đó vào khoảng 75.000BC, con người chưa vượt khỏi vùng nhiệt đới.
Ðến 40.000BC mới mon men kiếm ăn ở vùng ôn đới.
Mãi đến 25.000BC mới chinh phục được vùng Hàn Ðới, nhưng trụ không được lâu. Lúc này lục địa Mỹ Châu vẫn chưa có vết chân loài người.
Ðến 19.000BC thì lại thụt về Bắc vỹ tuyến 55

Ðến 13.000BC: Nền nông nghiệp ở Ðông Nam Á mới thành hình cùng với cách tính Miêu Lịch theo vị trí ngôi sao chuẩn đúng giữa đêm. Thời gian được đo bằng cái vại đất nung ở đáy có chọc một lỗ cho nước ri-rỉ chảy ra. Ðây là máy đo thời gian đầu tiên.
Ðến thời đại đồ đồng thì cái vại đất nung được thay bằng cái hồ đựng nước bằng đồng nên ta gọi dụng cụ đo thời gian là cái Ðồng Hồ (vào khoảng 3.000BC), tức cái hồ bằng đồng. Lúc này nhân số trên toàn thế giới chưa tới 3 triệu người.
(coi bài Việt Lịch số 8 wwwnhanvanviettoc.blogspot.com)

Trong khi đó thì nghề chăn nuôi bắt đầu phát triển ở vùng Trung Ðông, trung tâm là IRAN. Ðây là tổ tiên người Tàu.
Danh từ người Tàu do Triệu Ðà đặt ra vào năm 182BC để đối kháng với danh từ Trung Hoa do mụ Lã Hậu (vợ Lưu Bang, tức Hán Cao Tổ)
(coi bài Văn Hóa Tàu từ Việt mà ra số 2 ww.nhanvanviettoc.blogspot.com)

Môi trường sinh sống làm thay đổi nhiễm sắc thể (chromosone) nên con người biến dạng to nhỏ khác nhau, da trắng da đen, mắt đen mắt xanh....
Nghề nghiệp sinh sống làm thay đổi tâm tính con người cho nên Văn Hóa Du Mục lấy bạo lực làm cán cân công lý, vì kẻ thù của họ là động vật.
Nông Nghiệp lấy nhân tính làm cán cân công lý, vì kẻ thù là thiên nhiên, mất mùa thì chết cả đám nên đẻ ra triết lý thực dụng:
Nhất sỹ nhì nông
Hết gạo chạy rông thì nhất nông nhì sỹ.

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NỀN VĂN HÓA
NÔNG NGHIỆP VÀ DU MỤC

Tính từ 14.000 năm trở lại đây (2000) thì trái đất chịu cả thảy là 4 trận đại hồng thủy, lần chót vào khoảng cách đây 8.000 năm.
Khi nước dâng cao là lúc bàu khí quyển nóng, băng tuyết tan thành nước, khi nước biển rút thì khí quyển nguội nên nước đóng thành băng tuyết. Sự nóng lạnh khí quyển là do phản ứng hóa học sinh ra như: Trái đất đã phải để ra hàng triệu năm để biến các chất độc địa thành URANIUM hay PETROLE; trong phản ứng thì hút nhiệt xung quanh. Nay ta đem xài nên khí quyển nóng lên chẳng hạn.
Chúng ta có thể nhìn trên vách đá ở vùng Dead Valley (ARIZONA), bờ biển Normandie (FRANCE) hay ở Việt Nam, tỉnh Ninh Bình hay vùng đồng bằng sông Hồng thì thấy dấu vết của nước thủy triều. Ðo phóng xạ carbone thì định được tuổi của các rêu mọc ở vách núi.

Khởi thủy sắc dân sống về nghề nông được gọi là MIÊU tộc, sinh sống ở lục địa Ðông Nam Á ngày hôm nay từ sau trận đại hồng thủy cuối cùng, tức khoảng 3.500BC. Chữ MIÊU có nghiã là Mễ (ngũ cốc), tiếng Việt.
Về sau người Tàu là dân du mục từ IRAN di qua theo các cánh đồng cỏ là STEPPES mà bên Á Châu không có; họ sang thì gặp con cháu Ðế Nghi sống dọc theo lưu vực sông Hoàng (tức Hoàng Hà; Hà là sông dử, giang là sông hiền) vào thời Hoa Hạ (#1.700BC). Sau đó là nhà Thương (1.500BC) rồi đổi thành nhà Ân (#1.300BC) rồi đến nhà Chu, nhà Tần (Tần Thủy Hoàng Ðế )

Từ ngày Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) ở Tràng An chết vào năm 183BC thì vợ là Lã Hậu nhiếp chính, nhốt con vào tù nên xã hội rối ren. Do đó y thị mới phát binh đi đánh nước Nam Việt của Triệu Ðà (Triệu Việt Vương) để đẩy phe thù nghịch ra chiến địa.
Vì cần học thuyết để xâm lăng nên y thị đẻ ra danh từ TRUNG HOA, tức trung tâm tinh hoa của vũ trụ. Dân chúng dưới triều nhà Hán thì gọi là Hán Tộc để phân biệt với các sắc dân xung quanh là Bắc Rợ (rợ Hồ = Mông Cổ; rợ Kim = Mãn Thanh) Tây Quỷ gồm dân Ngô Cát Nhĩ (Tân Cương) và Tây Tạng. Phương Nam có dân Việt thì gọi là Nam Di để phát quân đi khai hóa cho chúng.

Ðể chống lại các danh xưng hỗn xược nên Triệu Việt Vương mới gọi chúng là Tàu (nghĩa là một lũ ngố) để chỉ bọn du mục sống ở lưu vực sống Hoàng (Hoàng Hà chảy qua Bắc Kinh) và gọi vợ chúng là Xẩm (có nghĩa là lòa, hát xẩm là điệu hát của người mù lòa có từ đời nhà Trần).

Về sau trong bài Bình Ngô Ðại Cáo (1.427) Quốc Sư Nguyễn Trãi có tóm lược lịch sử nước Việt từ thời Văn Lang (2.879BC) như sau:
Duy ngã Ðại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.

Có nghĩa là: Chỉ có (duy) nước (quốc) Ðại Việt của ta (ngã)
mới thực sự (thực vi) là nước (bang) có nền văn hiến.

Diễn nôm là: Thực sự (thực) đi vào từng tiểu bang một (vi), tất cả đều có nền văn hiến nhân bản (nông nghiệp) của loài người....Còn nước mi có nền văn hiến bắp thịt của loài thú (theo nếp sống du mục).

Vậy thì văn hóa nông nghiệp lấy tình người làm chánh (âu cơ; âu là trái tim, cơ là chánh) vì kẻ thù là thiên nhiên, mất mùa thì chết cả đám, giàu nghèo hay sang hèn gì thì khi đói cũng chết. Vì vậy mới có câu:
Nhất sỹ nhì nông,
Hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sỹ.
Còn văn hóa du mục là : Lý kẻ khỏe bao giờ cũng đúng.
Văn hóa lấy thịt đè người, hiếu sát, hiếu chiến và hiếu thắng.

THỜI  KỲ  QUẦN  CƯ

Hãy hình dung lại cuộc sống của loài người ở thời điểm quần cư vì đã nghĩ ra được cách sản xuất thực phẩm để không sợ đói.
Theo dự đoán của di vật để lại thì nghề nông xuất hiện cách đây khoảng 15.000 (13.000BC) ở Ðông Nam Á Châu (tây phương gọi là miền đất phương đông; tiếng Tàu gọi là địa đàng phương đông).
Cũng ở thời điểm này thì sắc dân du mục sống bằng cánh đồng cỏ (Steppe) phát xuất từ Trung Ðông mà khởi điểm là IRAN rồi lan đi khắp bắc bán cầu.

Khởi đầu của Triết: Khi cuộc sống đã ổn định thì ai cũng đặt câu hỏi là con người từ đâu mà ra? Hay con gà có trước hay trứng gà có trước?

Nếu lấy sự hiểu biết của chúng ta thì không ai có thể giải nghĩa được, vì môi trường lúc đó hoàn toàn khác với môi trường sinh sống ngay hôm nay.
Từ địa chất đến bàu không khí và nhiệt độ đều hoàn toàn khác ngày hôm nay.

Câu hỏi này thuộc phạm trù Triết học, nghĩa là luận về chu trình biến hóa vạn vật. Xét câu trả lời thì biết ngay tư tưởng của người thời đó.

1.      Tất cả mọi câu trả lời từ Tôn Giáo đến Triết Gia hay thường nhân không ai chú trọng đến môi trường sinh sống cả, cho nên đi đến bế tắc tư tưởng, rồi cả vú lấp miệng em. Tự mình tôn lên làm thánh làm thần để ngụy biện chống lại những ai hỏi vặn hỏi vẹo.

2.      Nên nhớ là lúc đó tất cả đều quan niệm "thiên cơ bất khả lộ", trời tròn đất vuông, trời che đất chở. Bàu trời quay quanh trái đất nên tha hồ tưởng tượng ra mọi huyền bí mà khoa học chưa cho phép giải thích được. Ðem thần sấm (bà La Sát), thần sét (ông Thiên Lôi), ông Thiện ông Ác, quỷ sứ ra dọa con nít.

3.      Ngoại trừ dân Việt thì tất cả nhân loại, kể cả các vị giáo chủ đều nói là phải có một Ðấng Tối Cao nào đó sinh ra loài người, và mỗi vị bịa ra một vị tối cao của giáo lý mình.
Cứ thế, giáo dân nhắm mắt theo kinh điển được tu chính của người đời sau nên gọi là môn phái. Tuy theo kinh điển của cùng một giáo chủ nhưng mỗi môn phái diễn giải theo một ý khác nên chia ra thành môn đồ; lâu ngày các môn đồ cứ xa nhau và đưa ra các giáo lý cho hợp với môi trường hiện tại.

4.      Vì dân Việt bướng đấu nên phản bác lại rằng: Nếu nói ông Trời sinh ra vạn vật thì ai sinh ông Trời? Bố ông Trời sinh ra ông Trời (không cần mẹ!). Vậy thì ai sinh ra Bố ông Trời?.... Cứ thế kéo dài bất tận.
Ông Trời là tiếng nói tượng trưng cho đấng cao siêu nào đó. Ông trời không phải là DIEU mà là LE CIEL (bàu trời do ông quản trị nên ông chỉ ló có cái mặt ra nên ta gọi là Mặt Trời: Le Soleil)

5.      Lúc đó dân Việt khẳng định rằng chẳng ai sinh ra cả, con người có là do TẠO HÓA sinh ra. Vì lười không suy nghĩ nên không đọc được tư tưởng cao siêu của tổ tiên qua chữ Tạo Hóa rồi chê người Việt cù lần, nhìn đâu cũng thấy cái bướng bỉnh, chây lười cả. Chỉ vì sống lâu trong nô lệ lâu ngày nên nảy sinh ra tinh thầm yếm thế. 

Ðây nhé: Chữ TẠO có nghĩa là sinh ra; và chữ HÓA có nghĩa là biến đổi.
Vậy thì Tạo Hóa có nghĩa là do sự biến đổi mà sinh ra. Tỷ dụ cơm là sự biến đổi của gạo, nước, nhiệt mà ra. (cơm=gạo+nước+nhiệt).

Bàn tay phù thủy biến đổi vạn vật là NHIỆT; nhiệt sinh ra bởi sự cọ sát của các nguyên tử mà ra. Các nguyên tử luôn luôn di chuyển vì đây là môi trường động nên không có vật nào đứng nguyên một chỗ cả. Trong vũ trụ mà chúng ta đang sống không có môi trường tĩnh nào cả.

Thuyết Thiên Mệnh của Khổng Tử : Bố láo !
Từ tư tưởng Tạo Hóa nên mới phát sinh ra Lý Dịch, rồi ông Khổng Tử bịa ra thuyết Thiên Mệnh nên mới biến Lý Dịch thành Kinh Dịch. Kinh dịch đẻ ra Tử Vi, Tử Vi đẻ ra Bói và Toán, Bói Toán để ra mê tín: Xin Sâm. Khúc này đã được giảng trong bài Khổng Tử chả có gì để học. 
www.nhanvanviettoc.blogspot.com bài học số 2.07 (bài số 7 năm thứ nhì)
Việt Triết lúc khởi thủy chẳng giống ai, vì thế nên tư tưởng thuần Việt thuộc dân nông nghiệp, lấy sự vận hành của sao làm chuẩn cho nếp sống của mình.
Còn tư tưởng của sắc dân du mục lấy mặt trăng làm kim chỉ đạo cho cuộc sống của họ.
Nông Nghiệp là sắc dân định cư nên có văn minh xóm làng và đô thị; còn Du Mục thì không có nếp sống văn minh ổn cư. Do đó xã hội loài người có 2 luồng tư tưởng khác nhau: Tư Tưởng Nhân Bản và Tư Tưởng Bắp Thịt.
       Về sau có sự giao lưu văn hóa nên có sự pha trộn tư duy và tư tưởng.


PHẦN III : Lối thoát của dân Việt

Thế đứng xưa và nay
Ngày xưa, di chuyển khó khăn, thông tin hạn hẹp vì văn minh khoa học mới chỉ ở thời đại đồ đồng và đồ sắt nên chỉ có Việt với Tàu.
Nước Việt ở thế cô, dân Việt lại ít, lãnh thổ chỉ có từ Ải Nam Quan đến đèo Hải Vân; thế mà tổ tiên chúng ta đã chặn được bước tiến của Bắc Quân để bảo vệ tự chủ như thời Lý Thường Kiệt (nhà Lý), nhà Trần, Lam Sơn và Tây Sơn.
Vào thời kỳ Cơ Khí (kỹ nghệ thép), dân Á Châu với tư tưởng lỗi thời nên chậm tiến đối với xã hội Tây Dương, do đó bị khống chế bởi vũ khí tân tiến.

Khi nô lệ thì tư tưởng lại bị méo mó do kẻ thống trị là Thực Dân Pháp nhồi nhét để an phận tôi đòi. Lúc này truyền thông chưa phát triển, vận chuyển còn khó khăn nên dân ta bị nhốt trong nước và chấp nhận nền giáo dục ngu dân để dễ trị.
Vì thế nên Việt Cộng mới bồi tiếp tư tưởng nô dịch Mác Lê để nhắm mắt tiến mau tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa; trong khi đó chính người lãnh đạo là ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng hiên ngang tuyên bố là: Chưa chắc 100 năm nữa đã tiến tới Xã Hội Chủ Nghĩa, mặc dù chưa biết Xã Hội Chủ Nghĩa mặt mũi ra sao, tốt hay xấu..... nhưng cứ nhắm mắt lao đầu xuống hố.
Theo Tố Hữu thì Việt với Tàu là một, Việt tiêu vong thì đã có Tàu quản lý đất Việt. Rõ ràng tư tưởng của hắn nằm trong 2 câu thơ bất hủ mà Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng khen nắc nỏm:
Bên đây biên giới là nhà,
Bên kia biên giới cũng là quê hương.

Nếu chưa muốn mất nước với Tàu hay bất cứ ngoại bang nào thì việc xóa bỏ tư duy nô dịch và tư tưởng hướng ngoại phải làm ngay và thay vào đó bằng cách xây dựng Tư Duy Ðộc Lập và Tư Tưởng hợp thời nếu chưa muốn dân Việt tiêu vong.

Ngày nay, nhờ văn minh điện toán nên chúng ta có thêm mặt trận truyền thông và vận chuyển, và chúng ta phải khai dụng tối đa để không bị bưng bít thông tin và không bị cột cẳng với tư duy nô lệ chủ nghiã Mác Lê.
Phá vỡ bưng bít thông tin là phá vỡ cái ngu trong đầu, phục hồi nhân phẩm dân tộc thì mới thoát hiểm được.
Hiện nay sự hung hăng của Bắc Kinh đe dọa vùng Ðông Hải và Nam Hải để thông ra Thái Bình Dương. Khi ra được Thái Bình Dương rồi thì Bắc Kinh thi hành mộng bá quyền thế giới (one world, one china).
Việc đầu tiên là chiếm Ðông Hải và Nam Hải bằng vùng lưỡi bò, đe dọa an ninh trong vùng và giao thông quốc tế.

Nước yếu hèn nhất là Việt Nam trong khi địa thế Việt Nam lại nằm ngay trong vùng chiến lược toàn cầu. Ðó là cơ may để người Việt chúng ta nhờ Quốc Tế bảo trợ và nhân dịp này vực lại sức mạnh toàn dân thì mới mong thoát khỏi hiểm họa Hán Hóa được.

Việt Cộng ươn hèn không dám chống đối Bắc Kinh thì toàn dân đứng lên lật chúng xuống để tự cứu lấy mình; đừng bỏ lỡ dịp may này.

Muốn tự cứu thì phải kết hợp toàn dân. Muốn kết hợp toàn dân thì phải thay đổi não trạng, nghĩa là phải có ý chí và nghị lực canh tân tư tưởng và thay đổi tư duy của chính cá nhân mình cho hợp thời thì mới tạo được thế kết hợp toàn dân.
Sau đó còn phải có cái nhìn bao quát về tình hình thế giới thì mới biết đường thoát hiểm để tự vực dạy cho ngang vai cùng người.

Vậy thì Canh Tân Tư Tưởng sao cho hợp thời và xây dựng Tư Duy độc lập là một nhu cầu cấp bách để tự cứu lấy mình.

Vấn đề canh tân tư tưởng: Canh Tân tư tưởng ra sao, theo chiều hướng nào và tới đâu thì đủ?..... Ðây là bài toán của toàn dân nên cần sự đầu tư trí tuệ của mọi người.

      Thiết nghĩ việc thẩm định trước tiên là Thế Giới cần gì ở Việt Nam, và người dân Việt làm được gì cho họ thì mới có thể đòi hỏi đổi chác để tự thoát khỏi vấn nạn do Việt Cộng chủ tâm đem tới.

      Nhìn địa hình chiến lược toàn cầu và sự hung hăng của Bắc Kinh thì chúng ta thấy:

1.      Bắc Kinh hiện nay bị tù túng trong vùng Ðông Hải và Nam Hải. Hải là vùng biển nhỏ, Dương là vùng biển lớn. Hà là sông dữ, Giang là sông hiền.

2.      Ðông hải là vùng biển phía đông của Hoa Lục, giới hạn là Triều Tiên, Nhật Bản, quần đảo Ðiểu Ngư và dảo Ðài Loan.

3.      Nam hải là vùng biển ở phía nam Hoa Lục bị ngăn chặn bởi Phi Luật tân, Nam Dương quần đảo, Mã Lai, Thái lan và Việt Nam.

4.      Người ta lấy vùng đất được gọi là Hoa Lục làm chuẩn không có nghĩa là vùng đất đó thuộc về cái dân tộc được gọi là "Hán". Trong thực tế thì không có dân Hán, vì từ nhà Hạ đến nay người ta vẫn gọi người dân sống dưới triều đại nào thì mang cái tên đó, hoặc sắc dân sống ở vùng nào thì mang cái tên vùng đó; chứ nó không lệ thuộc vào nếp sống (văn hóa) của sắc dân đó.

      Bên nước Việt của chúng ta thì khác hẳn: Sắc dân mang tên là gì thì sống theo nền văn hóa đó. Khi văn hóa và tiếng nói thay đổi thì sắc dân đó mang cái tên mới.
Tỷ dụ dân Tày thì họ nói tiếng Tày và sống theo văn hóa Tày. Còn bên Tàu thì: Sắc dân gọi là Hán tộc nay họ đâu có nói tiếng của nhà Hán, mặc y phục Hán hoặc sống theo văn hóa Hán nữa đâu..... Vậy thì Chánh Quyền Bắc Kinh vỗ ngực là: Ta đây Ðại Hán chi có nghĩa là họ theo đuổi đường lối bành trướng không ngừng bằng bạo lực như triều đại nhà Hán đi thôn tính lân quốc.......Coi lịch sử nhà Ðông Hán thi rõ.

Thế chánh Trị: Về phương diện chánh trị thì chúng ta thấy đường lối và sinh hoạt chánh trị thì hiện nay Nhà cầm quyền Bắc Kinh đang bị đe dọa bởi tư tưởng Tự Trị của từng vùng nên họ rất lo ngại cuộc đấu tranh của Sinh Viên HongKong.
Muốn ổn định chánh trị và củng cố quyền lực thì bắt buộc họ phải gây chiến để thoát ra biển Ðông (Thái Bình Dương). Mà muốn thoát ra biển Ðông thì phải phá vỡ vòng vây từ Triều Tiên vòng xuống Mã Lai rồi lên đến Việt Nam.

Khi ra được biển Ðông thì lại phải tiếp tục gây hấn với Úc Châu, Ấn Ðộ để còn lấy lý cớ bắt dân nhịn đói đi xâm lăng với chiêu bài gãi ngứa dân tộc vào năm 2008 là: Một Thế Giới, một nước Tàu (nghĩa là nước Tàu thống trị thế giới)...
       Khẩu hiệu này thì chúng đã nêu cao trong Thế Vận Hội ở Bắc Kinh năm xưa (2008).
Nếu các nhà Lãnh Ðạo Bắc Kinh không thay đổi não trạng để có cuộc sống nhân ái và hài hòa sắc tộc bằng cách hội nhập bình đẳng văn hóa và xã hội đồng tiến thì họ chỉ mua lấy thảm họa chia ly như liên bang Sô Viết vậy.
Vì nhân loại không muốn chết bởi hành động của một đám háo chiến, háo thắng và háo sát nên chúng ta có cơ thoát hiểm nếu biế thay đổi não trạng kịp thời.

Nhìn thẳng vào sự thật thì nước Tàu là một liên bang ô hợp, lấy bạo lực để ép buộc dân bị trị và tìm cách biến họ thành con người u tối để dễ bề đè đầu cỡi cổ.
Cách cai trị này bắt nguồn từ nhà Chu với chế độ Phong Kiến, sau đó là nhà Tần với chế độ toàn trị, rồi đến nhà Hán với chế độ quân phiệt.....Mao cũng quân phiệt vậy và ngày hôm nay cũng thế vì chúng là một lũ điên say mê quyền lực nên bắt buộc phải sống nhờ chiến tranh.

Muốn chặn thảm họa nhân loại thì chỉ còn cách hoặc thay đổi não trạng của bọn cầm quyền thích bành trướng, hoặc ngăn chặn không cho chúng phát triển và đồng thời đem thông tin đến với toàn thể dân Hoa Lục, một khi người dân thâu nạp đầy đủ thông tin thì họ sẽ thay đổi ý chí và bắt tay vào hành động để đòi quyền sống làm người ở kỷ nguyên điện tử như nhân dân ở HongKong.

Canh tân tư tưởng ra sao? Tới đâu thì đủ?
Trước hết chúng ta phải biết thế đứng của mình quan trọng ở chỗ nào trong tranh chấp quốc tế thì mới biết đường canh tân tư tưởng để bảo vệ tự chủ.
Có bảo vệ được tự chủ thì mới xây dựng được xã hội an bình, và từ đây mới xây dựng được con người để canh tân xứ sở cho giàu mạnh.
Mạnh vì gạo, bạo vì tiền, còn ngửa tay đi xin viện trợ, đi vay nợ để sống thì làm gì có độc lập mà nói đến tự do dân giàu nước mạnh.

Như đã phân tích ở trên là hiện nay nước Việt là một mắt xích ngăn chặn sự bàng trướng võ lực ra Thái Bình Dương của Bắc Kinh và sau đó Bắc Kinh sẽ dọa nhân loại để trên thế giới này chỉ có một nước Tàu, trung tâm chỉ huy là Bắc Kinh. Coi khẩu hiệu One world, one China (chỉ có một thế giới của nước Tàu) của bọn bành trướng Bắc Kinh đã trương lên trong năm 2008 khi chúng đăng cai Thế Vận Hội. Rõ ràng là bọn này muốn thống trị thế giới.

Muốn có tự chủ thì phải giữ vai trò lá chắn không cho Bắc Kinh bành trướng đe dọa nền hòa bình của nhân loại, và cũng không làm mũi xung kích giúp nhân loại tiêu diệt sức mạnh của Bắc Kinh. Phải làm sao 2 bên cân bình thì thế giới mới yên vui trong thanh bình được.
      Ðó là mục tiêu phải đặt tới.

Từ mục tiêu này chúng ta đi ngược thời gian cho đến chỗ đứng hiện tại của Việt Nam ngày hôm nay thì sẽ tìm ra được khế sách tự chủ.... Ðó là khế sách an bình mà chúng ta phải đề xướng và cùng nhân loại thi hành.

Muốn sáng tạo ra học thuyết thì chúng ta phải có cái vốn về khả năng thực thi của dân Việt và nguyên nhân suy thoái tư duy để có nghịch cảnh ngày hôm nay. Muốn vậy thì chúng ta phải đi suôi chiều lịch sử: Nghiên cứu lịch sử quá khứ để thay đổi lịch sử hiện tại thì mới mong tìm ra được kế sách tự chủ trong an bình nhân loại.... Ðừng mơ ước một nước Việt an bình trong thế giới nhiễu nhương, đó chỉ là ảo vọng thôi. Vậy thì chúng ta có 2 mệnh đề phải giải quyết:

Mệnh đề thứ nhất là: Gây vốn thoát hiểm, tức thay đổi lịch sử hiện tại để xây dựng tương lai.

Mệnh đề thứ nhì là: Tạo học thuyết xây dựng xã hội hài hoài giữa các sắc tộc.


Mệnh đề thứ nhất:
Gây vốn để thoát hiểm
Chúng ta có 4 khâu phải xây dựng cho hợp với đời sống văn minh điện toán, đó là:
(1)               Việt Giáo:
Giáo Lý học làm người, tức những đức tính phải có để trở thành con người của thời đại điện toán. Việt giáo đặt mục tiêu tiến tới là: Tinh thần tự trọng và cầu tiến để tiến lên khí phách Rồng Tiên với nếp sống Lạc Hồng.
Tự trọng là ý nghĩa của danh từ Văn Lang và Cầu Tiến là ý nghĩa của danh từ VIỆT. Từ 2 đức tính căn bản này mới đẻ ra muôn vàn đức tính phải có của con người Văn Lang: Hào hoa, Phong nhã, Phóng khoáng, Hào hiệp và Lịch sự Bặt Thiệp (§ Rồng Tiên Khai Quốc bài số 6 www.nhanvanviettoc.blogspot.com)
(2)               Việt Ðạo:
Cách xây dựng đất nước hài hòa bằng tinh thần thương yêu đùm bọc như chuyện 100 trứng 100 con. Học thuyết này được gọi là con đường phải đi của dân tộc.
Việt đạo chủ trương xây dựng một xã hội tình người, cùng làm cùng hưởng lấy đơn vị sinh hoạt nhỏ là Làng hay Hội Ðoàn để gây tinh thần thương yêu, cùng làm cùng hưởng. Tức là mỗi thành viên đều có quyền đóng góp ý kiến và việc làm của mình để xây dựng cơ sở căn bản và phát huy tình người...
Ðây là nơi tập sự làm chánh trị để có tự chủ của cơ sở mà mình tham gia với ý niệm: Lệnh vua còn thua lệ làng; nay ta gọi là xã hội dân sự (chuyển nghĩa từ danh từ Tây Phương), nguời dân giữ nước giữ làng chứ không phải Hội đồng Kỳ Mục giữ làng, giữ nước. Từ dây mới đẻ ra khẩu hiệu xây dựng xã hội hài hòa bằng cách: Kết hợp với nhau bằng Tâm, cư xử với nhau bằng Ðức. Bình đẳng tột cùng, thân thương tột độ. (§ Rồng Tiên Khai Quốc bài số 6 www.nhanvanviettoc.blogspot.com)
(3)              Việt Triết:
Ta là ai và sống để làm gì? Từ ngày có xã hội loài người cho đến hôm nay (15.000BC-2015AD) nhân loại có rất nhiều học thuyết (do triết gia đẻ ra) để ổn định xã hội theo sự đánh giá cuộc sống và mục tiêu nên tới của mỗi triết gia mà họ gọi là an bình xã hội, hoặc hạnh phúc của người dân, hoặc uy quyền của nhóm cai trị.
Như Cộng Sản chủ trương dùng bạo lực để tạo uy quyền cho nhóm cầm quyền bắt nguồn từ thời Vệ Ửng (Ngũ gia liên bảo, công an trị và bao vây dạ dày). Tức có từ thời ông cố nội Tần Thủy Hoàng (khoảng 300BC - 290BC).

Riêng Việt Triết thì người xưa chủ trương đấu tranh tự vệ, xây dựng con người và xóm làng để phong thủ cho kỹ trước sức tấn công vũ bão của kẻ xâm lăng để hát lâu chầu mỏi buộc phải lui binh.
Chánh nghĩa giả tạo sẽ hiện nguy-en hình và tự ý lui binh chấp nhận cầu hòa. Gần chúng ta nhất là quốc sách Ấp Chiến Lược (phòng thủ xóm làng cho kỹ, toàn dân kháng chiến) và học thuyết Cần Lao Nhân Vị (tự mình cố gắng xây dựng thế đứng của mình trong xã hội).
Vì hoàn cảnh thiếu tổ chức do Thực dân Pháp cố tình chia để trị nên ngoài công tác Quốc Sách nói trên còn phải: Chống giặc chậm tiến để nâng cao trình độ hiểu biết của tất cả các sắc dân rồi mới có thể đồng tiến để bằng các siêu cường được.
Thời xửa thời xưa thì được ký thác trong châm ngôn: Cương quyết tiêu diệt kẻ thù, không nhân nhượng; nhưng không những không được truy kích hay trả thù trong lúc đấu tránh mà con phải độ lượng và khoan dung với người dân do kẻ thù lãnh đạo để cùng nhau tạo cuộc sống hài hòa và cộng đồng đồng tiến như thời Việt Vương Câu Tiễn (600BC) đã sát nhập nước Ngô vào nước Việt để chấm dứt chiến tranh, xây dựng liên bang hài hòa; hay thời vua Lê Thánh Tôn (1471) đã giết triều thần háo chiến chấm dứt sự sát hại sinh linh bất tận để hội nhập hai nước Chiêm-Việt vào làm một với cuộc sống hài hòa.
Vi thế nên nghĩa quân Tây Sơn là người Chiêm ở vùng Tây Nguyên (hồi đó gọi là vùng Nam Bàn) Chính họ đã giải phóng dân Việt ra khỏi sự thống trị của dân Tàu bằng trận Ðống Ða (mồng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu:1789). Cũng chính họ đã thâu hồi miền đồng bằng sông Cửu Long bằng trận đánh oanh liệt trên sông Cửu Long (khúc Rạch Gầm và Soài Mút) Nếu trận Rạch Gầm-Soài Mút nghĩa binh Tây Sơn thua thì vùng đồng bằng sông Cửu Long của Khmer và Việt ngày hôm nay đã nghiễm nhiên trở thành đất nước Xiêm La (tức Thái Lan ngày hôm nay). Chỉ trong vòng có 4 tiếng đồng hồ giao tranh mà toàn bộ lực lượng thủy binh Thái Lan (khoảng 20.000 người) đã hoàn toàn bỏ mạng trên chiến địa và không dám mơ ước chiếm đất đang khai phá nữa.
Ngoài ra tất cả voi trận, ngựa chiến và binh lương, binh khí đều do người Chiêm ở vùng tây Nguyên cung cấp..... Nay họ đòi ly khai với phong trào Fulro là lỗi ở vua Minh Mạng đã trả thù vì họ theo anh em Tây Sơn và ngày hôm nay Việt Cộng đã cướp đất sinh sống của họ để nhượng quyền khai thác cho Tàu rồi từ từ sẽ biến thành thuộc địa (đất thuộc về) của Tàu.
Ngày hôm nay thì Việt Triết phải cập nhật cho phù hợp với kỷ nguyên điện toán, không thể quân tử Tàu được.

(4)               Học Thuyết thoát hiểm:
Muốn sáng tạo ra học thuyết thoát hiểm thì ít nhất phải có cái vốn về những cách thoát hiểm của người xưa rồi cập nhật để áp dụng vào bối cảnh lịch sử ngày hôm nay mà những nguyên lý sau đây cần phải nắm cho vững:
a.       Vì tinh thần tự trọng nên chính người Việt phải sáng tạo ra học thuyết thoát hiểm cho dân mình bằng tinh thần Kết Hợp, Phục Thiện, Cầu Tiến, Tư Duy độc lập và Tư Tưởng hợp thời của chính mình.
b.      Phương thức mà tổ tiên chúng ta đã áp dụng để lấy yếu thắng mạnh là: Chánh nghĩa dân tộc, Công Tâm dân mình, Mưu lược chống kẻ thù như: Nhà Trần, nhà hậu Lê, nhà Tây Sơn đã làm.
c.       Phát huy nền Việt học mà thời Tây Sơn gọi là nền Chính Học do viện Sùng Chính đảm nhậm cùng với cách danh sư phụ trách như: La Sơn Phu Tử, Ngô Thì Nhiệm và nhiều học giả biết chăm lo cho dân. Ngày hôm nay chúng ta gọi là nâng cao dân trí.


Mệnh đề thứ hai:
Tạo học thuyết xây dựng xã hội hài hòa

Muốn tạo học thuyết thoát hiểm thì phải biết trong tương lai mình muốn cái gì, và mình phải làm thay đổi lịch sử hiện tại như thế nào cho có tương lai mong muốn.

Ðây là đề tài rất bao-la và to lớn nên soạn giả xin được gợi ý như sau:

Trong tương lai:
Thế toàn cầu hóa loài người cần mẫu người như thế nào để ổn định xã hội phức tạp do văn minh khoa học tạo ra? Những vấn đề khó khăn phải giải quyết là gì? Ít nhất là giải quyết:

a.       Nạn nhân mãn vì trái đất hạn hẹp nên chỉ nuôi nổi một sống sinh vật nào đó thôi; còn không thì sẽ chết vì thiếu dưỡng khí và nước ngọt.
b.      Vấn đề nhân sinh bình đẳng bằng cách hội nhập bình đẳng văn hóa và phân chia đồng đều tài nguyên trên trái đất. Tức là giải quyết tận gốc vấn đề bất công giữa con người với nhau.
c.       Vấn đề giáo dục cần chương trình giáo khoa nhân văn và một đội ngũ Giáo Sư chuyên nghiệp không những về kiến thức mà còn phải được huấn luyện về khoa sư phạm nữa.

Vấn nạn hiện tại:
Trong thế tranh chấp hiện tại do Tàu gây ra thì thế giới cần gì ở chúng ta và chúng ta khai dụng được gì để bảo đảm sự tự chủ?

Không có tự chủ thì chẳng làm được gì ráo chọi. Vậy muốn có tự chủ thì phải làm gì trước tiên nếu không phải là cùng nhau Canh Tân Tư Tưởng để tránh cảnh dịch chủ tái nô?

KẾT  LUẬN
Như đã phân tích ở trên thì chúng ta thấy văn minh khoa học làm thay đổi nếp sống của xã hội loài người.
Văn minh đầu tiên của loài người là biết cách dùng lửa để làm đồ gốm cải thiện cuộc sống.
Từ đó loài người biết cách sản xuất ra thực phẩm nên dân số gia tăng rất nhanh. Lúc đầu từ vài triệu người mà nay đã sinh sôi nảy nở thành 7; 8 tỷ là nhờ vào cách biết tạo ra thực phẩm.
Khi nếp sống cải thiện thì Tư Tưởng phải thay đổi để phù hợp với nếp sống văn minh đương thời.
Muốn tư tưởng thay đổi đúng hướng thì phải nhờ đến môn TRIẾT học làm vốn và Tư Duy làm động lực thì Triết Gia mới có thể làm đổi nếp sống Tâm Linh được.

Cách suy nghĩ của thời Kỹ Nghệ vừa qua không còn phù hợp với cách suy nghĩ ở thời đại điện tử nữa; vì thế nên không những Tư Tưởng phải thay đổi mà Tư Duy cũng phải thay đổi theo.
Tỷ dụ: Pháp Lệnh dùng để ổn định xã hội trong công lý; nhưng công lý thay đổi theo Tư Tưởng nên những hình phạt dã man khi trước cần phải đem ra áp dụng, nhưng ngày hôm nay cần nên phải hủy bỏ như án tử hình chẳng hạn.
Khi trước xã hội tổ chức theo phụ quyền nên người đàn bà chỉ giữ chức nội trợ (trợ giúp ông chồng chăm lo việc nhà, dạy dỗ con cái........) nhưng ngày hôm nay người vợ ở nhà thì đói meo nên họ phải đi làm. Do đó rất nhiều việc khi xưa không hợp với người đàn bà, nhất là chánh trị.
Chỉ vì họ bị nhốt trong nhà không đuợc đi họp nên ngu, rồi bị chê là thiếu khả năng làm một số việc.... Nay nữ giới được quyền đi học nên đôi khi còn xuấ sắc hơn bạn trai nên họ có đủ khả nang để lo việc nước từ chức Nguyên Thủ Quốc Gia trở xuống.

Ðiểm này thì nước Văn Lang đã có tinh thần bình quyền Nam Nữ chứ chẳng phải đợi đến khi có luật về Nữ Quyền mới biết kính trọng phái nữ. Ðiển hình là bà Trưng, bà Triệu; và gần ta là bà Bùi Thị Xuân

Tây Phương phát xất từ nghề Du Mục nên coi khinh đàn bà; còn nước Văn Lang theo Nông Nghiệp nên theo Mẫu Hệ; nhưng lại theo Phụ Quyền... Ðó là xã hội dân chủ phân quyền: Huyết thống thì theo dòng mẹ, còn tài năng thì theo di truyền của bố. Những điểm này không những đã nói rõ trong chuyện Rồng Tiên Khai Quốc, Hoa Văn trên trống đồng Ðông Sơn mà con nằm trong các thành ngữ như "con hư tại mẹ, cháu hư tại bà" không biết dạy nhân cách cho con cháu; chứ có ai trach bố nó đâu.
Nhưng ngược lại khi nó ăn trộm ăn cắp thì người ta lại trách là "Bố nó không biết dạy", hoặc con nhà tông chẳng giông lông cũng giống cánh, hay cha ăn mặn thì con khát nước, cha ăn cướp thì con ngồi tù, cha giết người thì con đền mạng...oan oan tương báo là thế đó.... Con ơi học lấy nghề cha, một đêm ăn trộm bằng 3 năm làm.

Vì bị nô lệ lâu ngày nên tư tưởng vọng ngoại, do đó mới tấm tắc ca ngợi Tây Phương tân tiến, không có họ thì ta không biết dân chủ là gì, không có họ thì ta không biết đến nữ quyền..... Tức là bụt nhà không thiêng!
--------------------------------------------------
Sách tham khảo trên Site web
1.       nhanvanviettoc.blogspot.com (20 bài đã học + tài liệu tham khảo).
2.      Tùng Phong (Ngô Ðình Nhu) / Chính đề Việt Nam: Nói về học thuyết Cần Lao Nhân Vị và quốc sách ngăn chặn bạo lực từ ngoài đến bằng kế sách Ấp Chiến Lược và Khu Trù Mật để bảo vệ tự chủ thì mới xây dựng được cộng đồng đồng tiến bằng cuộc sống hài hòa giữa các sắc tộc trên đất Việt.
Những gì phải xây dựng và những đánh phá từ bên trong (vì u tối) và từ bên ngoài (vì cản trở bước tiến của họ)...
Bài này nên đọc kỹ để biết tại sao lại bị đánh phá dữ dội như vậy.
3.      Stephen Oppenheimer / www.bradshawfoundation.com/Journey/timeline.swf nói về bước chân loài người từ 150.000 BC .
(kinh nghiŒm tích lÛy) 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét