Chương trình Nhân Văn Việt Tộc
Năm thứ 3 (2015); bài số 8
Tư tưởng
Nguyễn Trãi: Linh hồn kháng chiến Lam Sơn
Bài số 3.08
Soạn giả: Tân Việt Nam
Bài soạn này gồm 5 phần:
Phần 1 : DẪN NHẬP.
Phần 2 : THUYẾT TRÌNH (tóm tắt
phần Tham Luận)
Phần 3 : THAM LUẬN.
Phần 4 : TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Phần 5 : TRAU DỒI KIẾN THỨC để biết
sai nhầm và thiếu sót của tài liệu tra cứu.
Phần 1 : DẪN
NHẬP
Bài
soạn này nhằm mục đích tìm hiểu Tư tưởng Nguyễn Trãi: Linh hồn kháng chiến Lam
Sơn, nhắc nhở các thế hệ tinh thần chống xâm lăng, nhất là chủ nghĩa bành trướng
Đại Hán của Trung C ộng
Bài
soạn tập trung vào các Nội dung chính :
·
Nguyễn Trãi là một sử gia uyên thâm, biết áp dụng sự học để thâu hồi
tự chủ.
·
Nguyễn Trãi là vị quân sư đại tài về chiến lược văn hóa (tâm công;
Bình Ngô Sách) và chiến lược quân sự (chém Liễu Thăng, dẹp tan quân Tàu xâm lược).
·
Nguyễn Trãi là linh hồn kháng chiến Lam Sơn (10 năm gian khổ).
·
Nguyễn Trãi là nhà Văn Tài vĩ đại (Bình Ngô Đại Cáo, Thơ văn...)
1.
Phần 2 : THUYẾT TRÌNH
2.1.- Chúng ta tìm thấy ở Nguyễn Trãi 4 thiên tài dưới
đây. Đó là thành quả của nền giáo dục nhà Hồ đem Toán học vào tam giáo đồng
nguyên.
a)
Sử gia uyên
bác, biết rõ lịch sử nước Văn Lang và tư tưởng người xưa khi lập quốc: Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến
chi bang.
b)
Nhà chiến lược
dùng văn hóa để chiến thắng bạo lực (Công tâm bằng văn hóa và lịch sử: Bình Ngô
sách).
c)
Quân Sư lỗi
lạc (cố vấn chiến thuật: dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông; bến Tụy-động xác đầy
ngoài nội).
d)
Nhà chánh trị
già dặn (Thể lòng trời bất sát, tha cho Vương Thông, Mã Anh về Tàu trống ngực
chưa thôi)
a)- Sử
gia uyên bác: Chủ trương
đối tác bình đẳng, xóa bỏ tâm trạng thuộc quốc.
Tất cả
những tư tưởng đó đả dược ký thác trong 2 câu để nói lên khí phách Rồng Tiên
ngay trong khi bắt đầu lập quốc vào năm 2.879BC.
Hai
câu đó là:
Duy ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Câu
thứ nhì đã nói rõ bối cảnh lập quốc và cứu cánh phải đạt tới để chứng minh rằng
dân Việt có đời sống Tâm Linh huy hoàng mà dân Tàu không có.
Thế hệ chúng ta không cảm thấy hùng khí là vì đã đoạn
tuyệt với tiền nhân nên có đầu óc tự ty mặc cảm vì không biết sử Việt một cách
trung thực và đầy đủ; nên còn nghi hoặc cho rằng ông Nguyễn Trãi đề cao tinh thần
Việt quá lố. Do đó chúng tôi xin được dùng bản văn chữ Tàu để giải thích như
sau cho rõ; vì dựa trên bản dịch là dựa vào tư tưởng của ngưòi dịch sai hay
đúng là tùy theo kiến thức của họ cao hay thấp.
Thông thường muốn hiểu tư tưởng người viết với mục
đích truyền đạt kinh nghiệm xương máu cho hậu thế như Quốc Sư Nguyễn Trãi thì
người dịch ít nhất phải có kiến thức bằng 70% kiến thức của người viết, chỗ còn
lại thì suy ra.
Rằng: Lịch sử lập nước Văn Lang, dựa theo tài liệu
mà hầu hết chúng ta đều biết thì:
·
Nước Văn Lang được thành lập vào năm 2.879BC.
–
Theo tài liệu của giáo sư Stephen Oppenheimer (2003),
lấy trên web site: MANKIND, thì niên kỷ này đúng chứ người xưa không bịa ra
đâu.
–
Lịch sử hòn đảo Đài Loan cũng minh xác điểm này.
–
Lịch sử Tàu Mao hay Tàu Tưởng viết cũng không phản
bác điểm này.
–
Khoa học đã chứng minh niên đại quần cư và định cư của
dân nông nghiệp ở vùng Thái Bình Dương nên không ai nói khác được (xin coi thêm
phần tham luận bài số 3.10.: Nguy hiểm của xâm lăng tiệm tiến).
–
VĂN HIẾN: Ông Nguyễn Trãi (1428) nói 4
ngàn năm Văn Hiến không sai (2.879+1428=4.307 năm) ; nay đã gần 5.000 năm văn
hiến (2.879+2015=4.894 năm) nên chúng ta không thể nói là 4.000 năm văn hiến được
mà phải nói lá gân 5.000 năm văn hiến mới đúng (đơn vị văn hiến là 1.000
năm, đơn vị cuộc sống là 100 năm, đơn vị
thế hệ là 20 năm)
·
Nước Văn Lang thành lập bởi 15 Bộ Lạc, mỗi bộ lạc có
ông Lãnh Vương; tả hữu giúp việc có ông Lạc Hầu (quan văn) và ông Lạc Tướng
(quan võ).
Rõ rằng
nước Văn Lang là một liên bang gồm 15 tiểu bang.
–
Chữ Bộ có nghiã là một vùng độc lập như Bộ Kinh Tế,
Bộ Giáo Dục.... mỗi bộ chăm lo một việc,
không được dẫm chân lên nhau.
–
Chữ Lạc có nghĩa là
an vui.
–
Muốn được an vui thì
các vùng phải liên kết với nhau để chống quân Ngô xâm lược, do đó phải lập Liên
Bang với tinh thần Tự Trọng (Văn Lang) và tinh
thần Cầu Tiến (Việt= vượt mọi trở ngại để tiến bằng người) và tư tưởng tương thân tương ái (nhân ái), bình đẳng (nhân
bản) như chuyện 100 trứng, 100 con
sinh nở cùng một thời điểm lại cùng một dòng máu; do đó chúng ta mới hãnh diện
về danh từ Đồng Bào (cùng một bọc) mà không một chủng tộc nào có ý niệm này cả (ý
niệm về Việt Đạo = xây dựng xã hội hài hòa).
–
Nhiệm vụ của ông Hùng
Vương là lo biến Liên Bang thành một dân tộc thuần nhất về mọi mặt, nhất là về
Văn Hóa và Ngôn Ngữ để có cuộc sống hài hòa.
–
Văn là đẹp, Lang là
người đáng được kính trọng (tức là Việt Giáo).
–
Văn Lang là người Hào
Hoa, Phong Nhã, Phóng Khoáng Hào Hiệp, Lịch Sự Bặt Thiệp (coi cuốn Phan Bội
Châu Tự Phán nói về 2 ân nhân là: Đại Hỷ Thái Lang (ông bác sỹ cho tiền di tản;
vợ con và dân làng không ai biết nghĩa cử này cả) và Đại Nghĩa Thái Lang (ông
Lý Trưởng kêu gọi dân làng giúp sức để khắc bia đá ghi ơn trên mộ phần ông bác
sỹ). Hiện nay bên Nhật Bản còn ngôi mộ này và dân trong làng rất hãnh hiện đã
giúp những người có chí lớn.
·
Tất cả các tiểu bang
đều theo văn hóa nông nghiệp: Nhân bản và nhân ái làm đầu.
–
Chuyện Lạc Long và Âu
Cơ cũng nói lên tinh thần này.
–
Chuyện 100 trứng, 100
con là truyền kinh nghiệm đấu tranh xương máu giữa Việt vương Câu Tiễn (lãnh địa
Quảng Đông mang danh xưng là Lạc Việt) với nước Ngô của vua Phù Sai (vùng Phúc
Kiến, Hồ Nam và Chiết Giang ngày hôm nay).
–
Chuyện Câu Tiễn nếm cứt
Ngô Phù Sai để chẩn bệnh là chuyện có thực, nhưng lại là giả vì: Theo mưu kế của
ông Phạm Lãi thì Ngô Phù Sai mắc bệnh thương hàn nên bịa ra là trong cứt có vị
chua (bệnh thải hồi), vị chát (dấu hiệu bình phục) và ngọt là ăn lại sức; để được
thoát chết thì mới rửa hận được.
–
Mưu kế như sau: Lấy ngón chỏ (bên
phải) chấm vào cứt và đưa lên mồm nếm bên cạnh, bằng cách đưa tay trái cầm mảnh
dẻ rách lên cùng lúc để che mắt mọi người; sau đó lấy dẻ chùi ngay cứt và mồm
cùng một lúc.
–
Ở thời điểm đó chưa
có giấy bút nên đề bằng bia miệng; do đó phải kể dưới dạng huyền thoại để ai ai
cũng muốn nghe và cũng muốn kể lại cho con cháu.
–
Lạc Long, Âu Cơ, Văn Lang, Lạc Hồng và Việt là những tín hiệu kết hợp dân tộc chống xâm lăng; vì mình là dòng
dõi quý tộc không ai bằng (sang, giỏi, khỏe và nhân từ như Rồng và Tiên). Đây
là giá trị
truyền thống dùng để kết hợp dân tộc và phục hồi khí phách khi lâm nguy. Bằng cớ là ngày hôm nay chúng ta vẫn nêu cao ý tưởng
này; mặc dù không hiểu nguồn gốc và ý
nghiã của nó một cách rõ ràng.
–
Lạc Long là vua Rồng đem an bình (an lạc) đến cho
dân Việt.
–
Âu Cơ là lấy tình người làm trọng (nhân ái như
tiên).
·
Văn Hiến : Văn Hiến là bản văn ghi rõ
trách vụ và quyền lợi của tất cả mọi thành phần trong một quốc gia, nay chúng
ta gọi là Hiến Pháp.
–
Khi lập quốc thì bắt buộc phải phân chia công tác và
mọi người phải dựa vào nhau để xây lực nên bắt buộc phải có Văn Hiến.
–
Văn Hiến dùng để bảo vệ Văn Hóa.
–
Văn Hóa phát sinh khi có cuộc sống quần cư. Cuộc sống
quần cư chỉ có khi tự sản xuất ra thực phẩm; tức là từ khi có nông nghiệp
(#13.000BC). Trước đó con người sống lẻ tẻ vì mưu sinh nên chưa biết nói vì chưa
cần tới, hơn nữa tư tưởng rỗng tuếch nên không có gì để diễn tả.
–
Nông nghiệp có là nhờ sự sáng chế ra đồ gốm (đất
nung) dùng để luộc tôm, cá, khoa sắn và lúa để húp cháo khi đói (lúc trái mùa nên
trái cây không còn và tôm cá cũng hết).
–
Sau đó mới phát hiện
ra: Ngũ cốc
là thực phẩm dự trữ khi đói, vì nó không chóng hư như trái cây hay thịt cá. Từ
đây mới nảy sinh ra nghề nông để dự trữ thực phẩm vào mùa đông: Tôm cá hay thịt
thài, trái cây khó kiếm trong mùa đông.
–
Từ nghề Nông mới phát minh ra Miêu Lịch tính theo
sao trên bàu trời (#8.000BC) để cầy cấy đúng mùa thì mới thu hoạch được thực phẩm.
Lúc này ăn no mới tưởng tượng ra là các ngôi sao có ảnh hưởng đến cuộc sống rất
phức tạp trên trái đất, do đó mới đẻ ra Lý Dịch (#6.000BC)
–
Lợi dụng ý niệm về Lý Dịch, ông Khổng Tử mới bổ xung
bằng Soán Truyện (tức tự ông suy luận những chỗ hở của Lý Dịch) và biến nó
thành Kinh Dinh để bảo vệ thuyết Thiên Mệnh của ông (#500BC); Dịch có nghĩa là
sự biến đổi của vạn vật.
Lý là lý
lẽ thì như vậy, nhưng có thể sai vì đó là suy luận của con người. Còn Kinh là
luôn luôn đúng, vì nó là nguyên lý thiên nhiên.
Ngày hôm nay thì chúng ta đã biết là các ngôi sao chẳng
dính chi đến cuộc sống của con người trên trái đất cả; vì quan niệm vận hành của
vũ trũ trong thời Điện Tử hoàn toàn khác với ý niệm thời đồ đồng của ông Khổng
Tử là: Trời tròn, đất vuông; trời che, đất chở.
Tóm lại:
Văn Minh
là sự sáng tạo ra đồ dùng để cải tiến cuộc sống. Văn minh có từ ngày biết dùng
lửa để làm đồ gốm (thời kỳ đá ghè, khoảng 100 ngàn năm trước tây lịch).
Văn Minh
đẻ ra Văn Hóa và Văn Hóa đẻ ra Văn Hiến, nay ta gọi là Hiến Pháp. Văn Hiến cần
Luật Pháp để bảo vệ (nay ta gọi là Pháp Luật).
Văn là đẹp,
chữ Hóa đi từ Phong Hóa mà ra. Phong có nhiều nghĩa, nhưng ở đây là cách ăn ở,
suy nghĩ như Phong Cách, Phong Độ, Phong Lưu, Phong Thái.... Hóa là thay đổi.
Vậy thì
chữ Văn Hóa có nghĩa là thay đổi cách ăn ở và suy nghĩ sao cho hợp thời một
cách đẹp đẽ. Rõ ràng là dù muốn hay không thì Văn Hóa bắt buộc phải thay đổi
theo văn minh.
Tỷ dụ
ngày hôm nay chúng ta không thể nào ăn nói lỗ mãng như thời đồ đá hay đồ đồng
được. Bây giờ là thời đại Điện Tử nên cách ăn ở, cách sinh hoạt cộng đồng và
cách suy tư phải khác với thời đại kỹ nghệ vừa qua.
ü
Giải thích 2 câu pháo lệnh: Duy ngã
ại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang.
Với sự hiểu biết thấu đáo về lịch sử như ông Nguyễn Trãi
thì quốc sư muốn nói là:
Nói theo văn xuôi: Chỉ có nước Đại Việt của Ta, thực
sự đi vào từng tiểu bang một (thực vi) thì tất cả đề có nền Văn Hiến nhân bản
và nhân ái của loài người (văn hiến nông nghiệp), còn nước mi có nền văn hiến rừng
rú (mạnh được yếu thua của loài thú).
Nói theo văn vần: Chỉ có nước Đại Việt của Ta mới
thực sự là nước có nền văn hiến của loài người
Chúng ta cũng không ngạc nhiên về sự hiểu biết của
ông Nguyễn Trãi vì: Ông được huấn luyện trong nền giáo dục nhân bản và nhân ái
của Hồ Quý Ly. Hồ Quý Ly theo nền giáo dục Tam Giáo Đồng Nguyên (khoa học nhân
văn) của nhà Trần và thêm vào đó môn Toán Học để mở rộng khoa học thực dụng như
ngày hôm nay. Bên trời Âu lúc đó khoa Toán Học mới bắt đầu phát triển để theo
sau là khoa học thực dụn, rồi đến phát minh ra máy móc ma ta gọi là thời đại kỹ
nghệ thép.
Dân ta đã bỏ lỡi phát triển để bằng người.
b)- Dùng
văn hóa để chiến thắng bạo lực: Công Tâm bằng văn hóa và lịch sử
Ta đây mưu phạt công tâm, không đánh mà người phải
khuất mà chúng ta có thể áp dụng vào thế trận diệt Cộng của chúng ta ngày hôm
nay.
Công tâm trong Bình Ngô Sách của ông Nguyễn Trãi là
dùng lịch sử oai hùng của cha ông và nền văn hóa nhân ái của Rồng Tiên để ran dạy
người Việt hãy hồi tâm, nghĩ đến hậu thế. Dù có đi phục vụ giặc Tàu thì cũng
hãy giữ tư thế bình đẳng và sẵn sàng làm gián điệp cho kháng chiến Lam Sơn. Vì
thế nên giặc dùng người mà không tin cẩn, chỉ nơm nớp lo chúng phản, ngược lại
còn giết người trung tín vì mắc mưu gián điệp của kháng chiến.
Ngược lại bên kháng chiến Lam Sơn thì biết rõ binh
tình và mưu kế của giặc để giăng bẫy dùng đoản binh chống trường binh như các
trận đánh lịch sử nói trong bài Bình Ngô Đại Cáo.
Nay chúng ta đã biết cách Tâm Lý Chiến của Quốc Sư
Nguyễn Trãi, vaây thì chúng ta phải além gì, và có thể làm được gì để làm tan
rã tay chân của bọn Cộng Nô?
Theo ngôn từ ngày hôm nay thì đây là phương thức
"đấu tranh bất bạo động" để chuyển cán cân quyền lực về tay nhân dân.
c) Nhà Quân Sư lỗi lạc (Quân Sư=cố vấn chiến thuật)
Khi đụng trận thì quân số của ta bao giờ cũng ít hơn
quân số của giặc, ấy thế mà ta thắng luôn là nhờ các vị tướng lãnh đã biết áp dụng
kế sách bình Ngô của ông để có quyết tâm diệt giặc nên 1 người có thể chống với
10 người.
Theo kế sách này thì ông chủ trương cuộc chiến nhân
dân; quân với dân như cá với nước cùng hợp tác để giết giặc, vì thế nên quân
Lam Sơn được huấn luyện rất chu đáo về văn lẫn võ để có thể ứng biến tại trận
tiền
Điển hình là trận Chúc Động và Tốt Động (hay Tụy-động).
Bên ta chỉ có 2 trung đoàn, khoảng 4.000 người mà bên Vương Thông có tới 30.000
quân tại trận địa. Bên ta giăng bẫy để đưa giặc vào tử địa phải mở đường máu để
thoát thân.
Trận địa như sau:
–
Ngay sau khi vây giặc ở Tây Đô (Thanh Hóa) thì kháng
chiến Lam Sơn gửi ngay 3 trung đoàn (khoảng 6.000 người) ra Bắc để cộng tác với
kháng chiến địa phương. Dân và quân ở điạ phương làm chỉ điểm, cung cấp lương
thực và nơi ẩn náu, áp dụng chiến tranh nhân dân: Toàn dân kháng chiến, toàn diện
đấu tranh.
–
Kháng chiến Lam Sơn áp dụng chiến thuật phân tán mỏng
để quấy rối bằng du kích chiến. Khi cần thì tụ nhanh, đánh mạnh rồi rút nên
quân của Vương Thông khó bề tiêu diệt chỉ vì có dân che chở.
–
Để nhử mồi, quân của Lý Triện (đổi quốc tính thành
Lê Triện) đóng ở Ninh Kiều, quân của Đinh Lể và quân của Nguyển Xí là quân di động
(biệt kích) một toán quấy phá Đông Đô và một cánh giành dân chiếm đất huấn luyện
kháng chiến.
–
Vương Thông biết vậy nên quyết đem 30.000 quân trong
số 100.000 lính, đánh úp để tiêu diệt quân Lý Triện ở Ninh Kiều.... Thế là
trúng kế của Lý Triện.
–
Vương Thông đóng binh ở bến Cổ-sơ (Thạch Thất - Sơn
Tây), Phương Chính đóng ở Sa-thôi (huyện Từ Liêm) và Mã Kỳ đóng ở Thanh-oai; đồn
lủy bao vây quân Lý Triện.
–
Phương Chính và Mã Kỳ chặn đường lui binh; còn Vương
Thông tấn công thẳng vào Ninh Kiều.
Vì áp dụng chiến tranh nhân dân nên bên ta biết kế
hoạt này.
–
Khi quân Tàu vừa hạ trại thì quân của Lý Triện tấn
công quân của Mã Kỳ, sau đó đánh tiếp quân của Phương Chính; chúng phải chạy về
hợp với quân của Vương Thông để báo cáo tình hình.
–
Sáng hôm sau quân Lý Triện đánh Vương Thông để thử sức
và mất 1 voi, thế là lui binh để giăng bãy.
–
Thừa thắng xông lên để lấy khí thế, quân Vương Thông
phá tan doanh trại Lý Triện, trong khi Lý Triện lui binh về làng Bụa để nhử địch
vào tử địa.
–
Ngay tối hôm đó thì quân của Đinh Lễ đóng ở Thanh
Đàm (nay là Thanh-trì có bánh cuốn nổi tiếng là ngon ở gần Hà Nội) bí mật chuyển
quân để phục binh quãng đường từ Chúc Động đến Tốt-động (Tụy-động); trên đuờng
từ Ninh Kiều đến Cao-bộ (láng Bụa).
–
Từ Ninh Kiều đến Cao-bộ chỉ có 2 lối : một con đường
đến thẳng làng Bụa, còn lối kia thì phải qua Chúc-động và Tốt-động là đường đất
nhỏ và trơn vì trời mưa trên đất thịt. vì chủ quan nên nghĩ rằng chuyến này
quân Lý Triện hết đường thoát thân vì đinh ninh rằng không có quân của Đinh Lễ
đến tiếp chiến và dân làng hổ hởi tham gia bằng bàn chông, đòn sóc và câu liêm
làm vũ khí.
Ngay sáng hôm sau Vương Thông phái một toán trực chỉ
làng Bụa tấn công, còn đại binh đi đường bọc hậu để tiêu diệt. Hai bên giao ước
là khi chiến xong làng Bụa thì đốt 3 tiếng phá làm hiệu.
Vì tất cả kế hoạch của địch thì bên Lam Sơn đều biết
hết (tình báo giỏi là nhờ công tâm) nên:
Ngay đêm hôm đó quân của Đinh Lễ hành quân ở Đông Đô
(Thăng Long) bí mật chuyển đến đóng chốt ở Chúc Động, còn quân của Lý Triện ở
làng Bụa đóng chốt ở Tụy Động. Dân làng Bụa thì làm bàn chông và dùng đòn sóc
(đòn gánh lúa có 2 đầu nhọn) hay câu liêm để trợ chiến. Đường bọc hậu phải đi
qua Chúc Động, Tụy Động rồi mới tới làng Bụa.
Đường thì dài lại hẹp và trơn nên quân Tàu phải dàn
mỏng và đi chậm. Quân ta phục bên đường trong các đống rơm, bên kia là ruộng nước
nên không nhìn thấy chông đầy đồng. Trận địa thuộc huyện Mỹ Chương, phía đông
có con sông Đáy phía tây có con sông Bùi chảy vào sông Đáy, thường gọi là Ngã
Ba Thá.
Hiệu lệnh như sau:
Khi quân Tàu tới làng Bụa thì bên ta đốt 3 trái pháo
rồi rút lui chặn đuờng để bảo vệ chốt ở Tụy Động.
–
Vì ngỡ ngàng nên toán quân Tàu đánh chiếm làng Bụa
án binh bất động, không dám tấn công vì sợ phục binh.
Trong khi
đó, quân Vương Thông hối hả tiến mau để chặn đường lui binh của Lý Triện; do đó
phải trải dài là làm mồi cho phục binh.
–
Khi lọt vào ổ phục binh rồi thì bên ta xung kích: Chốt
Chúc Động chặn đường tiếp ứng để chốt Tụy Động tiêu diệt. Phục binh trong các đống
rơm nhào ra đánh, dân làng dùng gậy gộc tiếp chiến. Hiệu lệnh là: Loại giặc ra
khỏi vòng chiến bằng thương tích, dùng thì giờ để đánh cho bị thương càng nhiều
càng tốt. Khi xong chiến trận thì quay lại giết sau.
Vì bị đánh bất ngờ nên quân Tàu hoảng hốt chạy xuống
ruộng có đầy chông gài nên chết như rạ. Tướng Trần Hiệp chết tại trận, Vương
Thông phải mở đường máu mới thoát về thành Đông Đô (Thăng Long) để cố thủ. Ta gọi
đây là chiến thuật chặt đôi đập đầu. Khi đập sắp xong thì lại mở đường chúng tiếp
ứng rồi đập tiếp nên quân ta ít mà giữ thế chủ động là thế: Hùm thiêng khi đã
sa cơ cũng hèn; đây là sức mạnh của trí tuệ (tâm linh). Buộc Vương Thông phải mở
đường máu về cố thủ trong thành Thăng Long để đợi viện binh của Liễu Thăng (10
vạn quân) và Mộc Thạch (10 vạn quân).
Một vạn bằng 10 ngàn. Ngày trước cách tính theo cột
là: Đơn vị, Chục, Trăm, Ngàn, Vạn, Ức, Triệu, Chục Triệu, Trăm Triệu, Tỷ.....
Ngày trước dân ta xướng từng cột một; nay theo cách xướng của tây Phương thì xướng
từng chùm 3 cột một nên không có cột VẠN và cột ỨC nữa
d)- Nhà
chánh trị già dặn (Thể lòng trời bất sát, tha cho Vương Thông, Mã Anh về
Tàu trống ngực chưa thôi).
Vấn đề đặt ra là: Tiêu diệt Vương Thông trước
khi viện binh qua hay đánh viện binh trước rồi quay lại giết Vương Thông sau.
Lúc đó quân của Vương Thông còn một nửa (5 vạn),
quân của liễu Thăng 10 vạn qua ngả Lạng Sơn và quân của Mộc Thạch 10 vạn qua ngả
Cao Bằng thì chưa tới tiếp cứu.
Bên Lam Sơn có 25 vạn. Quân số tương đương, hùng khí
đang lên nên mọi nguời đề nghị đánh dứt điểm Vương Thông trước khi viện binh tới.
Nghe thì rất có lý, nhưng ông Nguyễn Trãi bàn mưu
như sau:
1)
Vây thành Đông Quan (Thăng Long) thật chặt để làm kế nghi binh; Vương
Thông không dám xuất quân để tái chiếm đất đai.
2)
Dùng văn tài để dọa quân Mộc Thạch án binh bất động ở Quảng Tây.
3)
Dùng lời văn vừa yếu vừa gân để chọc tính háo chiến háo thắng của Liễu
Thăng.
4)
Xuất kỳ bất ý, kéo quân vây Đông Quan đi đánh úp Liễu Thăng. Thắng trận
này là Mộc Thạch lui binh, Vương Thông viết sớ xin bải binh.
Còn đánh Vương Thông thí nó cố thủ đợi viện binh,
nên khó thanh toán chiến trường trước khi viện binh tới. Lúc đó ta bị đánh bọc
hậu thì chưa chắc đã ăn, hơn nữa là thiệt hại sinh mạng và tài sản trong khi đất
nước đang cần cho việc tái thiết xứ sở.
Cuối cùng mọi người nghe kế sách của Nguyễn Trãi và
đã thành công như dự trù.
Hiềm một nỗi là Vương Thông chỉ là tướng nên hắn đề
nghị hưu chiến để đợi lệnh bãi binh của Minh Thành Tổ
Hội nghị Bồ Đề (một loại hội nghị Diên Hồng) được
triệu tập vì sợ đây là kế hoãn binh của giặc nên phải thận trọng. Mọi người đều
đồng thanh yêu cầu nhà vua hạ lệnh tấn công thành Thăng Long, phần để trả thù,
phần để dứt điểm bằng vũ lực. Lê Lợi thi đang do dự nhưng trong lòng thì quyết
đánh. Riêng ông Nguyễn trãi trình bày lợi hại như sau:
–
Ta dùng võ lực đánh thì được, nhưng xong rồi bọn nhà Minh lại kéo qua,
như vậy không bao giờ chấm dứt chiến tranh cả; đất nước sẽ tàn lụi chỉ vì hận
thù nên giết chúng.
–
Mục đích của chúng ta là chấm dứt chiến tranh chứ không phải trả thù nên
phải dùng biện pháp chánh trị để chúng bãi binh, chứ không phải lui binh.
Do đó phải xúi Vương Thông đang sợ chết, viết sớ xin bãi binh.
Tuy lời đề nghị này không được đa số tán thưởng, nhưng
Lê Lợi sợ mất dịp làm vua nên đồng thuận và giao cho ông Nguyễn Trãi liên lạc với
Vương Thông để hắn viết sớ theo ý mình.
Rút cục Vương Thông đề nghị muốn cho sớ được chấp
thuận thì phải tôn phù con cháu nhà Trần như chiếu chỉ của Minh Thành Tổ xua
quân qua với lý do nhà Hồ là ngụy triều.
Để mọi việc trôi chảy nên nhà vua đi kiếm Trần Cao
dâng biểu xin phong; mặc dù biết mình chỉ làm vật tế thần để Lê Lợi lên ngôi chánh thống.
Sau đó, phái đoàn gồm: ông Lê thiếu Dĩnh, ông Lê
quang Cảnh và ông Lê đức Huy đem tờ biểu và lễ vật sau đây sang chầu Minh Thành
Tổ ở Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay):
1.
Hai người bằng vàng để tạ tội đã giết Liễu thăng (thành tục lệ cống người
vàng từ đây cho tới thời Hoàng Đế Quang Trung mới thôi-1789)
2.
Một lư hương bằng bạc
3.
Một đôi bình hoa bằng bạc
4.
Ba mươi tấm lụa
5.
Mười bốn đôi ngà voi
6.
Mười hai bình hương trầm
7.
Hai vạn nén hương duyến
8.
Hai mươi bốn cây hương trầm.
Tuy là 2
bên đều biết là giả dối nhưng cùng muốn chấm dứt chiến tranh nên Minh Thành Tổ
phong cho Trần Cao làm vua nước Nam. Xin coi tờ biểu trong cuốn Việt Nam Sử Lược
của Trần Trọng Kim, quyển 1, trang 235.
Sau khi
bãi binh thì dân ta nuốt hận cấp thuyền bè và lương thực cho đoàn quân Vương
Thông về Tàu trong danh dự. Nhờ vậy mà chiến tranh chấm dứt, như ngược lại phải
đối phó với nội chiến còn thiệt hại kinh khủng hơn là choông giặc Tàu. Đúng là
giặc pha không bằng nhà cháy!
TRI TÂN:
Nay, chúng ta học hỏi được gì để kết hợp lòng người thì mới giữ được nền
tự chủ?
Không có tự chủ thì không thể phát triển được.
Nhân Văn Việt Tộc đã tìm được lối thoát, nhưng toàn dân có muốn tự lực tự
cường để tự cứu mình hay không? Nế có thì hay cố gắng bỏ tinh thần ỷ lại, tinh
thần tự kiêu và tự mãn và bắt tay ngay vào việc với tinh thần hài hòa thông cảm
để cùng nhau vượt khỏi những trở ngại của tổ tiên để lại từ thời Lê Lợi đăng
quang Hoàng Đế (1428)
²
NGUỒN GỐC THẢM
TRẠNG NGÀY HÔM NAY:
Đây là bước
ngoặt rất trầm trọng trong việc suy thoái tư duy để có thảm trạng ngày hôm nay.
Nguyên do
là Lê Lợi sợ văn nhân cướp ngôi nên sau khi nhận được sắc phong cho Trần Cao
làm vua thì buộc Trần Cao phải tự tử, rồi xin phong cho mình vì dòng dõi nhà Trần
không còn ai cả.
Khi được
phong vương rồi thì ông lại sát hại văn nhân nên chương trình huấn luyện người
tài đổi hướng. Thay vì Tam Giáo Đồng Nguyên để xây dựng Việt Giáo, và cho môn
toán-pháp vào đề thi để tiến tới kỹ nghệ hóa như Tây Phương đương thời, thì nhà
Lê lại đi thụt lùi bằng cách tôn vinh Nho Học để bảo vệ ngai vàng.
Tức là thay
ý niệm "Toàn dân giữa nước" của dân nông nghiệp thành ý niệm
"Đất của chúa lúc của trời" của dân du-mục; nên con cháu nhà
Lê có quan niệm là: Thà làm vua nô lệ còn hơn làm dân một nước tự chủ.
Vì thế nên
2 con buôn chánh trị là Nguyễm Kim và Trịnh Kiểm mới dựng ngọc cờ "Diệt
mạc Phù Lê" để sau này một bên giữ vua lấy chánh nghĩa, còn bên
kia thủ thế để phỗng tay trên. Trịnh Nguyễn phân tranh là chuyện phải có, và nó
là nguồn cội của mọi suy thoái.
Tư tưởng
này nó đã thành nét ấn trong đầu người dân và nhất là trong đầu Lê Chiêu Thống,
Gia Long, Hồ Chí Minh và những kẻ kế thừa.
Ø Muốn dứt điểm thì chính người dân phải đứng lên đòi quyền tự chủ; còn ù lỳ
thì sẽ tiêu vong.
[
KẾT
LUẬN.
Sau
khi phân tích tư tưởng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô Đại Cáo thì chúng ta
có thế kết luận được rằng ông Nguyễn Trãi là một:
ü
Sử gia uyên bác, biết rõ lịch sử nước Văn Lang và tư tưởng người
xưa khi lập quốc.
ü
Nhà chiến lược về mặt trận Công Tâm (Ngòi bút mạnh hơn súng đạn)
ü
Nhà Quân Sư lỗi lạc (cố vấn chiến thuật tài tình).
ü
Nhà chánh trị già dặn (Đánh viện binh Liễu Thăng và cấp thuyền về
nước cho Vương Thông)
Nhờ lời khuyên của cha nên ông Nguyễn
Trãi đã theo phò Lê Lợi mặc dù biết là mình sẽ gặp khó khăn sau khi chiến thắng,
vì Lê Lợi ham chức vua hơn hạnh phúc người dân. Vì thế nên ông mới sai người viết
chữ: Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần
bằng mỡ trên lá cây để kiế đục, lá rụng rơi xuống suối theo dòng ra sông; rồi
phao lên là ý trời như vậy (Thiên Mệnh)
Dân tộc được hưởng độc lập nhưng lại
mất tự do bằng chương trình tuyển chọn hiền tài thay đổi vì đầu óc hẹp hòi của
ông Lê Lợi. Sự thay đổi quan niệm giữ nước đưa đến Trịnh Nguyễn phân tranh, Lê
chiêu Thống cõng rắn về cắn gà nhà. Gia Long rước voi về dày mả tổ. Hồ Chí Minh
bán nước cho Tàu cho Nga để mang xú uế muôn đời.
Rút cục hậu thế lãnh đủ hậu quả: Lòng
người tan tác, tâm tư băng hoại, đất nước vô tổ chức. Muốn tránh tiêu vong thì
thế hệ này hôm nay phải sáng suốt, né tránh sai lầm của người xưa và can đảnh
nhận lãnh trách nhiệm, dù ở Hải Ngoại hay Quốc Nội.
Bài
3.10: Tư tưởng Ngô Đình Nhu là dịp để chúng ta tìm lối thoát cho dân tộc
sao cho con cháu chúng ta được ngửa mặt nhìn đời.
Bài này sẽ đem ra thảo luận vào ngày
02/12/2015 trên Paltalk, room: Diendan hoiluan Phongvan Hientinh VN từ 16 giờ đến
21 giờ Paris (9giờ tối Saigon, 7 giờ sáng Los Angelès)
²[²
PHẦN 3 : THAM LUẬN
3.1.- Nguyễn
Trãi: Quân sư số 1 về chiến lược đánh Tàu
Bình Ngô đại cáo là bài cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào
mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê L ợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến
chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
Về mặt văn chương, tác phẩm được người
đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là thiên cổ hùng văn. Có
nhiều ý kiến cho rằng: đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt
Nam (sau bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt và trước bản Tuyên ngôn độc lập năm
1945 của Hồ Chí Minh).
Tác giả bài Đại Cáo này là khai quốc
công thần của nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi. Ông tuy không tham gia khởi nghĩa Lam
Sơn từ những ngày đầu, nhưng cũng theo phò Bình định Vương Lê L ợi từ khi nghĩa
quân Lam Sơn còn ở thế yếu trước sự đàn áp của quân Minh, đã vạch ra nhiều kế
sách giúp cho nghĩa quân Lam Sơn thu phục nhân tâm và giành được ưu thế trên
chiến trường. Tương truyền, ông là người nghĩ ra kế sách viết dòng chữ “Lê L ợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”
(Lê L ợi làm vua,
Nguyễn Trãi làm tôi thần) trên lá cây, tạo ra như một điềm trời, khẳng định về
yếu tố "thiên mệnh" cho Lê
L ợi, làm lòng người nhanh chóng hướng về nghĩa quân Lam Sơn.
Sau khi lên ngôi, Lê Thái T ổ đã phong thưởng cho
Nguyễn Trãi là bậc cao trọng nhất bên văn quan, ông được ban quốc tính (tức được
mang họ vua, họ Lê), tước Hầu (Quan Phục Hầu) chỉ kém tước Công một bậc. Trên
thực tế ông vừa là cố vấn, vừa là quân sư, nhà chính trị, tài kiêm văn võ rất
thân với vua.
Phân tích tư tưởng nhân
nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi
Năm 1406 quân Minh xâm lược nước ta. Ách đô hộ của
giặc Minh đè nặng lên các tầng lớp nhân dân ta. Năm 1416, ở đất Lam Sơn- Thanh
Hoá, Lê L ợi và 18
người cùng chí hướng đã làm lễ ăn thề ở Lũng Nhai, nguyện sống chết cùng nhau
đuổi giặc cứu nước. Nguyễn Trãi- một tài năng xuất chúng, nổi bậc lên trong
hàng ngũ tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn. Ông đã góp công lớn trong cuộc kháng
chiến chống giặc Minh. Trong niềm hân hoan của cả dân tộc, tháng 2 năm 1428
Bình Định Vương Lê L ợi
giao cho Nguyễn Trãi viết “ Bình Ngô đại cáo” tuyên bố cuộc đấu tranh chính
nghĩa đã thắng lợi.
“Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức
mạnh của cuộc kháng chiến.
Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển
xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt
để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được
sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc
,đau thương.
“Từng
nghe:
Việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân
điếu phạt trứơc lo trừ bạo”
Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang
bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách
chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn
yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo
trừ bạo”.
Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định
chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“Nước
Đại Việt ta từ trước
Vốn
xưng nền văn hiến đã lâu
Núi
sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
là niềm tự hào dân tộc
“…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm
thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”
Nhân nghĩa còn là sự
chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi
rừng sâu nước độc
….
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Nhân nghĩa là cội nguồn
của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn
giặc Minh xâm lược đã:
“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm
Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”
Họ không có nhân nghĩa
vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để
ngàn năm”
Nhân nghĩa làm nên sức mạnh,
vì nhân nghĩa quân ta đã:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Quân
ta chiến thắng vì đã:
“Đem
đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy
chí nhân thay cường bạo”
Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình
nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần
nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị
bại vong:
“Tướng
giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần
vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ,
Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến
bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
về đến
nước mà vẫn tim đập chân run.”
Họ đã
tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy
toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó
khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.
Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần
nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và
quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê L ợi giương cao ngọn cờ chính
nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh
to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Nguyễn Trãi: Bình Ngô Đại Cáo
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Thay trời
hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông
gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tướcLương
Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông ,
Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Vưà rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa ?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Miịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Dánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm,
Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông,
Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi,
Cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù,
Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Liễu Thăng (柳升 hoặc 柳昇, ?-1427), tự Tử Tiêm (子漸), là một tướng nhà Minh, tử trận tại Việt Nam trong trận
Chi Lăng năm 1427.
Khi Vương Thông bị nghĩa quân Lam Sơn vây đánh ở Đông
Quan (nay là Hà Nội), triều đình nhà Minh sai Liễu Thăng làm
Tổng binh cùng Bảo Định bá Lương Minh làm
Phó tổng binh, Đô đốc Thôi Tụ làm
Tham tướng, Thượng thư Lý Khánh làm
Tán quân vụ đem 10 vạn quân và 2 vạn ngựa từ Quảng Tây[4] (Minh
sử chép là 7 vạn quân), cùng Kiềm quốc công Mộc Thạnh đem
quân từ Vân Nam sang
cứu viện. Lúc nhận lệnh, Liễu Thăng là Chinh Lỗ Phó tướng quân An Viễn hầu.
Quân của Liễu Thăng đi đường từ Quảng Tây tiến
vào Lạng Sơn. Tướng Lam Sơn là Trần Lựu giữ cửa Pha Lũy (ải Nam Quan) vờ không địch nổi Liễu Thăng, rút
lui về Ải Lưu. Liễu Thăng đánh tiếp Ải Lưu, Trần Lựu lại không giữ nổi (thực
chất là cố ý dụ quân của Liễu Thăng vào sâu trong ải), phải lui về Chi Lăng.
Mấy lần đánh đều thắng, lại thêm việc Lê Lợi lại giả đò sợ Liễu Thăng bằng cách
viết thư xin Liễu Thăng hoãn binh để cho Trần Cảo được lập làm vua, nên Liễu Thăng sinh
tự đắc.
Ngày 18 tháng 9 âm lịch, Liễu Thăng sai quân đánh Chi Lăng.
Trần Lựu ra nghênh chiến rồi giả thua bỏ chạy để dẫn Liễu Thăng vào trận địa
mai phục của Lê Sát. Liễu Thăng khinh địch chỉ dẫn 100 quân
kỵ đuổi theo, bị chém đầu mà chết vào ngày 20 tháng Chín.
[
3.2.- Nguyễn
Trãi: linh hồn Khởi nghĩa Lam
Sơn
(10 năm gian khổ).
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) (chữ Hán: 起義藍山) là cuộc khởi nghĩa đánh
đuổi quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành
lại độc lập cho nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê.
Khởi nghĩa Lam Sơn gồm ba giai đoạn lớn: hoạt động ở vùng
núiThanh Hoá (1418-1423),
tiến vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427). Trong giai
đoạn đầu,cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gặp rất nhiều khó khăn, thường phải hứng chịu
các cuộc càn quét của quân Minh, mặc dù vẫn có những trận họ đánh thắng
quân Minh và họ cũng từng đánh bại được quân Ai Lao cấu kết
với quân Minh. Quân khởi nghĩa bắt đầu giành thế thắng khi Lê L ợi tiến quân ra đất Nghệ Anvào năm 1424.
Họ đạt được nhiều thắng lợi to lớn, đỉnh điểm là đại thắng ở Tân Bình, Thuận Hóa. Cuối cùng, vào năm 1426,
giữa lúc quân khởi nghĩa đang trên đà thắng lợi và tiếng tăm của Lê L ợi lên cao, quân khởi nghĩa
tiến đánh thành Đông Quan, và đánh tan nát
quân Minh trong trận Tốt Động-Chúc
Động. Bước sang năm 1427,
nghĩa quân đập tan tác 10 vạn viện binh của đối phương trong trận Chi Lăng -
Xương Giang, giết chết viên
chỉ huy quân Minh là Liễu Thăng. Họ thu được nhiều chiến mã, lại còn
bắt sống và tiêu diệt được nhiều tướng Minh. Cuối cùng, người Minh phải giảng
hòa và thoái binh về nước, khiến cho nước Đại Việt không còn một mống quân xâm
lăng.[1] Một
văn thần trong quân khởi nghĩa là Nguyễn Trãi thừa lệnh của Lê L ợi đã viết bàiBình Ngô đại cáo để tuyên cáo cho toàn quốc biết về
chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn.[1]
Sau chiến thắng, với một nước Đại Việt độc lập tự chủ như
xưa, Lê L ợi lên ngôi Hoàng đế, tức là vua Lê Thái T ổ (1428).[1] Vì
chiến công vang dội của mình, ông trở thành một vị anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Bối cảnh lịch sử
Bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn nói về cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn
Khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra trong bối cảnh rất khó khăn. Nhiều
cuộc nổi dậy chống Minh, điển hình là nhà Hậu Trần, đã bị dẹp
một cách tàn khốc. Liên tiếp 2 vua nhà Hồ, một vua nhà Hậu Trần bị bắt về bắc, vua
Trùng Quang và các tướng đều tử tiết.Trương Phụ tàn sát những người lính theo quân
khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào
cây...) để khủng bố tinh thần người Việt. Mặt khác, các tướng nhà Minh như
Hoàng Phúc, Trương Ph ụ
đã thiết lập bộ máy cai trị và huy động được một lực lượng người Việt giúp việc
khá đắc lực như Mạc Thúy,Lương Nhữ Hốt, Trần Phong...
Tinh thần chống đối của người Việt lúc đó đã lắng xuống khá nhiều so với thời
nhà Hồ mới mất. Một lớp nhân tài nổi lên chống đối trước đây đã bị tiêu diệt
hoặc vô hiệu hoá. Một số cuộc khởi nghĩa chống Minh vẫn hoạt động nhưng lẻ tẻ
và không có khả năng mở rộng.
Trong bối cảnh đó, Lê
L ợi đã đứng lên khởi nghĩa ở Lam Sơn. Ông vốn là một người có
chí lớn và khảng khái, đến mức chính quyền đô hộ nhà Minh từng kêu gọi ông ra
làm quan chức. Tuy nhiên, ông quyết không nghe theo, và luôn cho rằng: "Làm
trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời,
chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người!". Do đó, ông cư ngụ ở nơi
núi rừng, và tập hợp hào kiệt về.[1] Cuộc
khởi nghĩa mở đầu đúng như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:
Vừa khi cờ
nghĩa dấy lên
Chính lúc
quân thù đang mạnh
... Tuấn
kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài
như lá mùa thu
²
Hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa[sửa | sửa
mã nguồn]
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng
như Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú,Nguyễn Trãi... tất cả
50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn[2] (trong
đó 19 người đã từng tham gia hội thề Lũng Nhai,
năm 1416), xưng là Bình Định Vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên đánh
quân xâm lược nhà Minh cứu
nước. Địa danh Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ Xuân tỉnh
Thanh Hóa.
Thời kỳ hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa là
giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đầu, lực lượng của
quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng
được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại.
Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn ba
lần phải rút chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần
cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Một lần bị quân Minh vây gắt ở núi Chí Linh (có
sách ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, một nghĩa sĩ của Lê L ợi là Lê Lai theo
gương Kỷ Tín nhà Tây Hán phải
đóng giả làm Lê L ợi,
dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên
lơi lỏng phòng bị, Lê L ợi
và các tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy thoát. Lê Lai bị quân Minh giải về Đông
Quan và bị giết. (Xem thêm bài Lê Lai)
Ngoài quân Minh, Lê
L ợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ phận các tù
trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều khó khăn, quân Lam
Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao có lực lượng đông hơn. Tuy nhiên do lực lượng
chưa đủ mạnh nên Lê L ợi
thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ
và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của mình để cho
tướng sĩ ăn.
Trước tình thế hiểm nghèo, Lê L ợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422.
Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê L ợi liền tuyệt giao cắt đứt
giảng hoà.
²
Tiến vào Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Chiến dịch giải
phóng Nghệ An
Theo kế của Nguyễn Chích, năm
1424 Lê L ợi quyết định
đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Tiến vào Nghệ An là một bước ngoặt về
chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng (Bất Căng, Thọ Xuân) do Lương Nhữ Hốt giữ, đánh lui quân cứu viện của viên
tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành
Trà Lân. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân
Lam Sơn đánh lui. Lê L ợi
vây Cầm Bành, Trí đóng ngoài xa không dám cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Bành phải
đầu hàng.
Lý An, Phương Chính từ Đông Quan vào cứu Trần Trí ở Nghệ
An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê
L ợi dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia phá tan. Trần Trí chạy
về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ An.
Tháng 5 năm 1425, Lê
L ợi lại sai Đinh Lễ đem
quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Sau đó ông
lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp
ứng cho Đinh L ễ
đánh ra Tây Đô, quân Minh ra đánh lại bị thua phải rút vào cố thủ trong thành.
Như vậy đến cuối năm 1425, Lê L ợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào,
các thành địch đều bị bao vây.
²
Giải phóng Đông Quan[sửa | sửa mã
nguồn]
Chiến thắng Tốt Động, Chúc Động[sửa | sửa
mã nguồn]
Tháng 8 năm 1426, Lê
L ợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra
phía Tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị
ra phía Đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra
đánh Đông Quan.
Viện quân từ Vân Nam do Vương An Lão chỉ huy kéo
sang, nhưng bị Phạm Văn Xảo phá tan. An Lão chạy về cố thủ ở thành Tam Giang.
Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính
để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan.
Quân Lam Sơn định đón đường ngăn chặn nhưng không được. Lê L ợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây
thành, còn mình kéo đại quân ra bắc.
Để đối phó lại tình hình nguy cấp, năm 1426, nhà Minh cho
huy động 20.000 quân từ nhiều tỉnh phía nam tiến vào tiếp viện. Các quan lại
nhà Minh tại Việt Nam cũng được lệnh mộ thêm 30.000 thổ binh bản xứ hỗ trợ.
Thêm vào đó, nhà Minh cho gửi thêm hỏa khí sang trợ chiến, và các tướng Minh
tại Việt Nam cũng rút hết quân làm đồn điền (trồng lúa lấy lương - khoảng 8.000
thổ binh bản xứ) để đối phó với quân nổi dậy.[3] Trần
Trí, Phương Chính bị cách chức, bị đặt dưới quyền Vương Thông sai khiến để lấy
công chuộc tội. Tại Vân Nam, Mộc Thạnh cũng được lệnh tuyển mộ 15 ngàn bộ binh
và 3 ngàn cung thủ chuẩn bị sẵn sàng.[4] Từ
Quảng Tây, tướng Minh là Cố Hưng Tổ (Gu Xing-zu) được lệnh đưa 5.000 quân bản
bộ sang tiếp ứng với Vương Thông.[5]
Sử chép ba đạo quân ra bắc của Lê L ợi chỉ có tổng số 9000 người.
Các nhà nghiên cứu cho rằng con số đó chưa chính xác vì các trận đánh của ba
đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá
đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại chia thành 4) chắc phải
đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh của quân
Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê L ợi đã bàn với các tướng, đại ý
rằng: quân Lam Sơn hiện có tổng số 35 vạn, ông dự định sẽ cho 25 vạn về làm
ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy
những cánh quân ra bắc phải có một vài vạn mỗi cánh quân.
Ngoài ra, theo tác giả Karl Hack, sau khi nhà Hậu Trần thất bại, nhà Minh cho rằng sự bình
định ở Giao Chỉ cơ bản đã hoàn thành, nên điều Trương Ph ụ cùng một phần lớn
đạo quân viễn chinh về nước. Việc đánh dẹp và chiếm giữ được giao lại cho các
đạo quân phần nhiều gồm binh lính mộ bản xứ và có các chỉ huy là người Việt.
Đây có lẽ là lý do sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ khi các binh
lính người Việt này nổi dậy hoặc hưởng ứng các cuộc nổi dậy sau này.[3]
Lập Trần Cảo
Vây thành Đông Quan[sửa | sửa mã
nguồn]
Sau khi cắt đứt giảng hoà, Lê L ợi sai các tướng đi đánh chiếm các thành ở Bắc
bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn,
không lâu sau đều hạ được.
Đầu năm 1427, Lê
L ợi chia quân tiến qua sông Nhị Hà, đóng dinh ở Bồ Đề, sai
các tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng
nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến các nơi rất được lòng dân.
Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê L ợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở các thành khác ra
hàng.
Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ lơi lỏng, quân Minh ở
Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử
trận ở Từ Liêm, Đinh Lễvà Nguyễn Xí bị
bắt ở Thanh Trì. Đinh L ễ bị giặc giết hại, sau Nguyễn Xí lợi dụng một
đêm mưa giông mà trốn thoát được.
Chiến thắng Chi Lăng-Xương Giang[sửa | sửa mã nguồn]
Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông , sai Liễu Thăng mang
10 vạn quân tiến sang từQuảng Tây; Mộc Thạnh mang
5 vạn quân từ Vân Nam kéo
sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồvà nhà Hậu Trần. Theo
các nhà nghiên cứu, con số 15 vạn của cả hai đạo quân có thể là nói thăng lên,
trên thực tế nếu cộng số các đạo quân điều động từ các nơi thì tổng số chỉ có
khoảng gần 12 vạn quân và cánh quân chủ lực là của Liễu Thăng.
Theo Minh sử thì tới cuối tháng 1 năm 1427, nhà Minh điều
động từ Bắc Kinh, Nam Kinh và khắp các tỉnh miền nam Trung Qu ốc khoảng 70.000 quân[3]. Để cung ứng lương thảo, tại các tỉnh
Quảng Đông, Quảng Tây hễ nơi nào có dư lương thực đều phải tức tốc vận chuyển
về để cung ứng cho đạo quân viễn chinh. Tới cuối tháng 3, nhà Minh lại điều
thêm 2.200 vệ binh từ Vũ Xương và Thành Đô, 10.000 quân tinh nhuệ từ Nam Kinh và
33.000 quân từ các tỉnh miền nam Trung
Qu ốc đặt dưới quyền Liễu Thăng và Mộc Thạnh.
Nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp
thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê L ợi cho rằng đánh thành là hạ
sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh
kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước
để nản lòng địch ở Đông Quan.
Đầu tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua
như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hoá, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết
cánh Liễu Thăng là quân chủ lực, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn
Linh, Đinh Liệt mang
quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Nguyễn Lý mang
quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão
luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành động nên hạ lệnh cho Phạm
Văn Xảo và Trịnh Khả cố
thủ không đánh.
Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua
chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18 tháng 9 âm lịch,
Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi
trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lê Sát , Trần Lựu đổ ra chém chết.
Các tướng thừa dịp xông lên đánh địch, giết hơn 1 vạn quân,
chém được Lương Minh ,
Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương
Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng
quân ngoài đồng không. Lê L ợi
sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp
ứng cho Lê Sát
cùng sáp đánh, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc, Thôi Tụ và hơn 3
vạn quân bị bắt. Do quyết tâm không quy hàng, Thôi Tụ bị giết.[1]
Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua to nên kinh hồn, bèn rút
chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi
theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa.
[
KẾT
LUẬN
Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận lỗi lạc trong nền văn
học trung đại Việt Nam, không những thế ông còn là một nhà quân sự, chính trị
tài ba kiệt xuất của cả dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại cho nền văn học nước
nhà một khối lượng lớn các tác phẩm văn chính luận, trong số đó phải kể đến
“Bình Ngô đại cáo”, đây được coi là một áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong
các tác phẩm chữ Hán cổ điển của nước ta.
Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi viết thay vua Lê Thái T ổ để tuyên cáo rộng
rãi trong nhân dân về qua trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn. Về mặt cấu trúc, tác phẩm có thể chia thành bốn phần. Phần 1là nêu
luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”), phần 2 là phần tố cáo tội
ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc (Tiếp
theo phần 1 đến “Ai bảo thần dân chịu được”), phần 3 là quá trình kháng chiến
và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (Tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy
xưa nay”), phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa
sẽ thắng phi nghĩa (phần còn lại).
Ở phần mở đầu tác giả nêu lên triết lí về nhân nghĩa, một
triết lí có giá trị lịch sử và tầm vóc của thời đại. Trong thơ Nguyễn Trãi, vấn
đề “nhân nghĩa” không đơn giản chỉ là sự yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mà nó đã
được nâng lên và thể hiện trong hành động cụ thể:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Đối với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân
dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng nếu muốn trị
vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là “nhân nghĩa”.
Những câu thơ tiếp theo tác giả muốn nói về nước Đại Việt
của chúng ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
…
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
…
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Trong những câu thơ trên Nguyễn Trãi cho rằng “nhân nghĩa”
đã có từ lâu đời ở nước ta, đồng thời khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của dân tộc được thể hiện ở việc núi sông bờ cõi đã được phân chia rõ ràng. Vì
đã được phân chia nên việc hình thành những phong tục tập quán cũng có nhiều
khác biệt tuy nhiên vẫn có điểm chung là sự tồn tại song song của các triều đại
lịch sử. Lời thơ như một lần khẳng định lại nội dung của “Nam quốc sơn hà” –
được coi như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Chính vì đã có những hành động xâm chiếm nước ta nên họ
phải chuốc lấy hậu quả:
“Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Những kết cục như thế này đều tự do chính họ chuốc lấy vì
thông qua bài tuyên ngôn đầu tiên đã như một lời cảnh cáo nhưng họ vẫn cố tình
thực hiện.
Ở phần thứ hai, tác giả đã nêu ra những tội ác của giặc và vạch rõ bộ mặt thật của giặc đằng sau lớp vỏ ngụy tạo “phù Trần diệt Hồ”:
Từ việc:
Ở phần thứ hai, tác giả đã nêu ra những tội ác của giặc và vạch rõ bộ mặt thật của giặc đằng sau lớp vỏ ngụy tạo “phù Trần diệt Hồ”:
Từ việc:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Cho đến việc chúng bắt nhân dân phải xuống biển mò ngọc
trai lên rừng sâu đãi cát tìm vàng, phải đối mặt với “rừng thiêng nước độc” và
muôn vàn khó khăn nguy hiểm , rồi đến sưu thuế chồng chất, phu phen lao dịch
nặng nề. Chúng hành hạ nhân dân ta đủ mọi đường “thằng há miệng, đứa nhe răng,
máu mỡ bấy no nê chưa chán”, sự độc ác và tàn nhẫn khiến tác giả phải thốt lên:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Giữa lúc ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy lên tinh thần yêu
nước và tiến hành cuộc khởi nghĩa:
“Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Căm phẫn trước tội ác của giặc, bóc lột nhân dân đủ đường
khiến nhân dân lầm than cực khổ khiến người lãnh đạo là Lê L ợi và nghĩa quân mất ăn, mất
ngủ, quyết tâm chiến đấu với tất cả tinh thần vì độc lập nước nhà:
“Căm giặc nước thề không chung sống
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng chỉ
còn lo một nỗi về việc tìm kiếm “nhân tài” và “hào kiệt”, đây là một việc khó
vì theo tác giả:
“Hào kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”
Nhân tài như lá mùa thu”
Trong khi đó, nghĩa quân vừa dấy quân khởi nghĩa vẫn còn
non nớt, thiếu thốn về mọi mặt như lương thực “KhiLinh Sơn lương hết mấy tuần”,
quân sĩ “Lúc Khôi Huyện quân không một đội”, còn quân thù thì đang rất mạnh,
đây chính là khó khăn của chúng ta và cách khắc phục duy nhất chính là sự đồng
lòng của toàn bộ nghĩa quân “Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu
ngọt ngào”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê L ợi “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” và
triết lí “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” cùng
với sự dũng cảm, gan dạ của binh sĩ, nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành
và lớn mạnh “sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”, kết quả là nghĩa quân giành
được nhiều chiến thắng vang dội “Đánh một trận sạch không kinh ngạc/ Đánh hai
trận tan tác chim muông”, còn giặc Minh thì phải chấp nhận những thất bại liên
tiếp và những tên tướng đều có kết thúc thật bi thảm:
“Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng
Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên
Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tướcLương
Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”
Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên
Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”
Tác giả đã ghi lại chi tiết từng mốc thời gian như những
mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc nhưng lại là vết nhơ, nỗi nhục nhã đối
với giặc Minh.
Mặc dù tội ác của giặc mãi mãi không thể rửa sạch nhưng quân ta vẫn trợ cấp cho giặc để về nước khi đã bại trận:
Mặc dù tội ác của giặc mãi mãi không thể rửa sạch nhưng quân ta vẫn trợ cấp cho giặc để về nước khi đã bại trận:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc
Vương Thông ,
Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run”.
Hành động này thể hiện truyền thống nhân nghĩa từ lâu đời
của dân tộc ta, một lần nữa khẳng định lời của Nguyễn Trãi:
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Phần cuối của tác phẩm đã nêu ra bài học lịch sử quý báu về
ý thức độc lập chủ quyền và vấn đề nhân nghĩa, đồng thời khẳng định sự thắng
lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
…
Âu cũng nhờ trời đất tổ tong
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”
Giang sơn từ đây đổi mới
…
Âu cũng nhờ trời đất tổ tong
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”
Đọc áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, người đọc như
cảm nhận được sức mạnh to lớn của dân tộc ta qua mỗi trang thơ của Nguyễn Trãi,
càng tự hào bao nhiêu về dân tộc mình bao nhiêu thì càng căm ghét tội ác của
quân giặc bấy nhiêu. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi xứng đáng là một bản
tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét