II/ - Phần Tham Luận dành cho Giảng Viên
Sơ đồ BIẾN
THÁI VĂN HÓA
trích đặc san Văn Lang số 28 ra ngày
25/01/2002; tức 22/12/4890 Việt
lịch
Thiết kế:
Hoàng Ðức
Phương
Paris 28/5/2008.
Kinh nghiệm Học thuyết đề TƯ TƯỞNG
(Quan sát) (để ổn định ra
(óc sáng tạo)
đời
sống) Triết học giỏi
+
tác động
nếp
tìm cách
tinh thần sống tâm linh hoàn thiện
cuộc
sống
Cầu nếp sống Tâm Linh
Tiến
(đầu óc thảnh
thơi)
(tâm trí
thỏa mái )
TƯ DUY
+ (suy nghĩ
phê phán
Phát
minh
nếp sống Vật Chất thành quả
khoa học
tác (no ấm hạnh phúc) khoa học)
( không ai
đòi kiến
thức cao
khống chế động
Ổn Ðịnh Chánh Trị
rút ưu
được) (thay
đổi guồng máy) khuyết điểm
VĂN
MINH VĂN HÓA
(nếp sống SUY NGHĨ
khoa học vật chất và tinh thần)
P Văn-Hóa là tiếng Tàu: Văn là đẹp, hóa là
cách sống nhẹ nhàng và thanh tao.
P Nếp sống là tiếng Việt: Hiện tượng này thì
hành động kia (phản xạ tự nhiên).
P
Tư là lo
nghĩ, xem xét kỹ càng. Duy là phê phán, Tưởng là ý niệm có hệ
thống rõ ràng với mục đích cải thiện cuộc sống cho một
nhóm người (ích kỷ), một dân tộc (chủ nghĩa Quốc Gia) hay cả nhân loại (tình
người).
---------------------------------------------------
Ðôi lời phi lộ: Bàn về Văn Hóa Việt chính thống
Một dân tộc muốn tồn tại thì người dân
không những phải biết kết hợp với nhau mà còn phải có tinh thần dấn thân,
cầu tiến nữa thì mới có đủ khả năng sánh vai cùng người.
Ø Hai yều tố này nằm trong nền văn hóa Việt chính thống
(§1- bài số 1: Rồng Tiên khai quốc)
Bài này (2.10) chỉ bàn về vấn đề kết
hợp dân tộc là bước đầu phải qua để có những bước kế tiếp; đó là sức mạnh
vô song không thể thiếu được.
Ø Còn ly tán là tiếng chuông báo hiệu sự tiêu vong và
chết chùm đó: Khôn cũng chết mà dại cũng chết, giàu cũng chết mà nghèo cũng
chết, sang hèn gì thì cũng chết vì thiếu nội lực.
Trường hợp điển hình là Gia Long rước Tây
về để thống trị dân ta nên con cháu của hắn (Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân)
cũng đi tù mút mùa như những người khác vậy. Còn muốn có hư vị thì làm tôi hèn
như Ðồng Khánh và Khải Ðịnh, muốn yên thân chờ thời giúp nước cứu dân thì mũ ni
che tai như Bảo Ðại.
Do đó chúng ta phải đi tìm nguyên nhân của
sự ly tán rồi mới kết hợp toàn dân như thời Lý, Trần, Lê và Tây Sơn được.
P Vậy thì chất liệu kết hợp lòng người là gì thì phải
tìm cho ra.
²
Trong xã hội loài người, vấn đề hợp quần để gây sức mạnh chỉ có 2
yếu tố là Kinh Tế và Văn Hóa.
-
Kinh tế là yếu tố để kết hợp với nhau bằng tiền nối liền với quyền
lợi của người dân.
-
Văn Hóa là yếu tố để kết hợp với nhau bằng tình, bằng nghĩa giữa
con người với nhau.
Xét cho kỹ thì tuy chúng ta thua kém về kinh tế nó kéo theo sự tụt
hậu về kỹ thuật và yếu hèn về quân sự; nhưng chúng ta có sức mạnh của trí óc
(tâm linh) không thua kém bất cứ dân tộc nào.
Ø
Vì thế nên chúng ta chỉ bàn về mặt trận Văn Hóa
mà thôi.
Thật vậy, tất cả những
trang sử oai hùng như Lý, Trần, Lê và Tây Sơn đều dựa vào Văn Hóa để kết hợp
toàn dân nên đã giành được quyền tự chủ ở thế:
Châu Chấu
lại đòi đá xe,
Tưởng chừng
chấu chết chẳng dè xe nghiêng.
(§2- Sử Trần
Trọng Kim/lời trối-trăng của Ðức Thánh Trần, quyển 1 trang 165)
Còn những thời suy thoái đều là những thời mất nhân tâm như Hồ Quý
Ly, Lê Chiêu Thống,
Gia Long hay Hồ Chí Minh; hoặc người dân không sáng suốt nên để mất lãnh tụ anh
minh như thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm mà ta gọi là Ðệ Nhất Cộng Hòa; hay nền
Ðệ Nhị Cộng Hòa vì tư duy lạc hướng nên đã ỷ lại vào Mỹ do đó mới mất nước.
Ø Nói cách
khác là: Lạc hồn dân Việt nên mới mất nước.
Ø Nói theo
thời Hùng Vương là: Hồn Nước mất trước rồi nước sẽ mất sau (chuyện Thục
Phán xây thành cổ loa, hay Trọng Thủy, Mỵ Châu)
Ngày hôm nay, nhìn thẳng vào sự thật thì sự kết hợp toàn dân vẫn
chưa thực hiện được đúng mức; vì thế nên Việt Cộng còn ngự trị trên nước ta,
mặc dù thất nhân tâm.
Mọi người ca thán nhưng chỉ ngồi chửi đổng chờ thời: Mỹ bật đèn
xanh hay Minh Quân ra đời? Ðào đâu ra Minh Quân khi chúng ta có tinh thần vọng
ngoại để mong được Dịch Chủ Tái Nô?
Bất cứ việc gì cũng đều có nguyên nhân của nó, nay đi tìm nguyên
nhân suy thoái thì sẽ thấy phương thức
xóa bỏ tụt hậu để tiến bằng người.
¯
Ngày trước xã hội loài người chỉ có 3 mặt trận chính để bảo vệ nền
kinh tế của mình. Ðó là:
(1) Mặt trận Văn
Hóa dùng để kết hợp toàn dân thì mới tạo được sức mạnh.
Mặt trận Văn Hóa cần đến chương
trình giáo dục đứng-đắn của nền Việt Học, tức là học những kinh nghiệm người
xưa về những điều cần phải học để giải quyết vấn nạn đương thời.
Do đó cần nhiều thày giỏi và uyên
bác về môn Việt Học và phương tiện giảng dạy từ thuở thiếu thời đến tuổi Thanh
Niên (từ 8 đến 18 tuổi), sau đó tự học lấy để cập nhật sự hiểu đời.
Toàn bộ khối Giảng Sư Việt Học cho
90 triệu dân Việt thì cần phải đào tạo mới có, nếu chúng ta không chú tâm thì
khi Việt Cộng ra đi rồi, đất nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn vì tư tưởng không
hướng Việt.
Ø
Tóm lại: Mặt trận Văn Hóa cần chương trình giảng dạy và khối Giảng
Sư có trình độ cao và sâu về môn Việt Học.
(2) Mặt trận Chính
Trị dùng để thuyết phục đối phương hy sinh cho mình hưởng; mà ta gọi là
thuyết khách để xúi địch thủ sa bẫy,
hoặc bắt chẹt đối phương.
Ðiển hình là hiện nay Trung Cộng đang ép Việt Cộng
dâng nước cho chúng bằng những lời đường mật như 16 chữ vàng và 4 tốt của quân
xâm lược Ðại Hán.
(16 chữ vàng: Láng giềng hữu nghị,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài và hướng tới tương lai. Và 4 tốt: Láng giềng
tốt, Bạn bè tốt, Ðồng chí tốt, Ðối tác tốt)
Ø
Tóm lại: Mặt trận Chánh Trị cần sự khôn ngoan, lắt léo của các nhà
Ngoại Giao.
(3) Mặt trận Quân
Sự là dùng sức mạnh bắp thịt để bắt người làm nô lệ cho mình. Mặt trận Quân
Sự cần nền kinh tế phồn thịnh để nuôi quân đông, tướng nhiều và phương tiện dồi
dào.
Ø
Tóm lại: Mặt trận Quân Sự cần nền kinh tế phồn thịnh để nuôi quân đông
tướng nhiều và phương tiện dồi dào.
Ngày hôm nay khoa học điện toán bùng
nổ, thông tin tự do và di chuyển dễ dàng nên mặt trận Quân Sự mất hẳn chỗ đứng
quan trọng như xưa. Thật vậy, chiến tranh đánh thì dễ nhưng lui thì khó. Hơn
nữa nhờ vũ khí tối tân nên chỉ phá hủy phương tiện sản xuất chứ không giải
quyết được vấn đề nhân mãn; nên dân bên phe thua trận ùa qua nước của phe thắng
trận...thế là bần cùng hóa thế giới vì phương tiện di chuyển dễ dàng.
Ø
Do đó bài toán Toàn Cầu Hóa phải lý giải khác hẳn khi xưa, không
thể áp dụng Tư Duy lỗi thời và Tư Tưởng lạc hậu của kỷ nguyên kỹ nghệ được.
Cách lý giải ra sao và người Việt góp được gì cho nhân loại thì chúng ta sẽ bàn
trong đề tài Vấn Nạn Toàn Cầu nằm trong năm thứ 5 với chủ đề Canh Tân Tư Tưởng.
NHƯNG, ngày hôm nay loài người có thêm 2
mặt trận mới là Truyền Thông và Di Chuyển.
-
Phương tiện di chuyển
giúp người dân di tản từ vùng đất chiến tranh đến hậu cứ an bình trên toàn thế
giới; vì trái đất lúc này là một ngôi nhà chung nên con người được quyền tự do
di trú và làm ăn ở mọi nơi.
Quốc gia chỉ
là một vùng quản trị hành chánh trong toà nhà chung là Thế Giới không phân biệt
chủng tộc vì văn hóa hòa đồng.
-
Phương tiện Tuyền Thông
giúp mọi người cập nhật thông tin đa chiều nên người dân biết chỗ nào là đất
lành để chim đậu.
Vậy tại sao
chúng ta lại không khai dụng phương tiện truyền thông để mở lớp học về Nền Văn
Hóa Việt Chính Thống nhỉ?
P Mục tiêu của
Chính Học là: Phục hồi tinh thần Việt tộc để kết hợp toàn dân, và xây
dựng tư duy độc lập để xóa bỏ tư tưởng dịch chủ tái nô. Ðồng thời trau
dồi kiến thức cho hợp với thời đại toàn cầu hóa để nâng cao dân trí, cập nhật thông tin đa chiều.
Thiết nghĩ đây
là lối thoát duy nhất của dân Việt, và cũng là công việc của chính người Việt
không thể trông chờ vào ngoại bang được.
²
Bàn về lời căn
dặn của 2 vị tiên hiền
(Ðức Thánh
Trần và cha Lạc Long)
Lời Ðức Thánh Trần: "Giặc
đến ào ào như vũ như bão, như lửa cháy chống đỡ dễ hơn là giặc đến từ-từ từ
trong tâm đến ra"
Nói nôm na là: Nô lệ Văn Hóa và Tư
Tưởng là nô lệ từ trong tâm nô lệ ra, rất khó chữa. Ðó là nô lệ từ đời cha
truyền đến đời con như Việt Cộng ngày hôm nay.
Nghiệm ra thì thấy rất đúng vì: Làm
sao có thể Canh Tân Ðất Nước cho bằng người với tư duy nô dịch chủ nghĩa Mác,
Lê, Mao, Hồ nó đã trói chặt tư duy độc lập và tư tưởng khai phóng của nhân tài đất
nước rồi? Nhân tài thui chột thì kiếm đâu ra Hiền Tài để giúp nước cứu dân.
Vậy thì mặt trận Văn Hóa và Tư Tưởng
còn quan trọng hơn mặt trận Quân Sự, Kinh Tế hay Chánh Trị. Mà sức mạnh của mặt
trận Văn Hóa là chương trình và phương tiện để Giáo Dục theo con đường Chính
Học.
Chính Học là
học về môn Việt Học (Văn Hóa và Tư Tưởng Việt) một cách đứng-đắn để phục hồi
khí phách Rồng Tiên và văn hóa Lạc Hồng thì mới có thể kết hợp dân Việt từ
trong tâm kết hợp ra được.
Một dân tộc
không kết hợp được với nhau để bảo vệ quyền sống của mình thì dân tộc đó sẽ
tiêu vong chẳng sớm thì muộn.
Trong thời nô lệ thì môn Việt Học bị
thay thế bằng chương trình đào tạo tôi ngu, dân hèn cho dễ thống trị; vì thế
nên môn học này là đồ quốc cấm: Giảng Sư không được quyền soạn bài, sách vở
không được quyền viết vì đây là đào tạo hiền tài để trừ gian, khử bạo thì mới
giúp nước an dân được.
Ngày hôm nay với kỹ thuật truyền
thông, chúng ta không cần phải nắm quyền mới giảng dạy được. Lớp học là
Paltalk, thư viện là Site Web nên Giảng Sư cũng như học viên chỉ cần có thiện
chí là đủ.
Tỷ dụ : Ngày hôm nay bọn Việt Cộng đã ra quyết định
về những ngày Quốc Lễ là chỉ tưởng nhớ đến công ơn những vị đã có công xây dựng
chủ nghĩa Tam Vô của Cộng Sản như Mác, Lê, Mao, Hồ....Như vậy phải gọi là ngày
Đảng Lễ mới đúng danh từ Việt
Còn cha đẻ ra nước Việt là Hùng
Vương bị xếp vào hạng địa phương thắp nhang tưởng niệm những thời đã qua. Hay
các vị anh hùng dân tộc như Trưng Nữ Vương, Ðinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Kiệt, Ðức
Thánh Trần, Quốc Sư Nguyễn Trãi, Lê
Lợi, Quang Trung......đều không thấy nhắc tới.
Từ đây suy ra thảm trạng ngày hôm
nay đến từ sự suy thoái tư duy để chấp nhận thân phận nô lệ từ cha truyền đến
con nối. Lần theo con đường này mà đi thì chúng ta sẽ thấy thảm trạng này bắt
nguồn từ chương trình đào tại nhân tài Trung Quân của vua Lê Thánh Tôn với mục tiêu:
Ðất của
chúa, lúc của trời.
Tư tưởng này còn di hại cho
tới ngày hôm nay. Bằng chứng là Việt Cộng ngang nhiên nói với lực lượng võ
trang là:
Còn Ðảng còn
Ta
Quân đội và
Công an bảo vệ đảng vì đảng đẻ ra chúng.
Trong khi đó người Việt được dạy dỗ
rằng nước mất thì nhà tan có trong quan niệm người dân từ ngày lập nước Văn
Lang với phương châm:
Ø
Lệnh vua còn thua lệ làng.
Ø
Toàn dân giữ nước.
Tư tưởng "nước của dân"
còn lưu truyền cho tới ngày hôm này với lá dân tộc kỳ nền vàng tuyền của lụa tơ
tầm.
Quốc kỳ của dân du-mục không có nền
vì họ quan niệm là "Ðất của Chúa, lúc của trời". Người dân chỉ
là những tên nô lệ của Lãnh Chúa mà thôi.
Quan niệm này đã in sâu vào đầu các
vị hoàng thân cuối triều là: Thà làm dân lưu vong còn hơn làm vua nô lệ. Ðiển
hình là:
1. Hoàng Tử Lý
Long Tường, Thủy Sư Ðô Ðốc đã bỏ nước ra đi tỵ nạn bên Triều Tiên khi nhà
Lý bị Trần Thủ Ðộ lật đổ.
Sử nói là
thoán nghịch thì không đúng vì:
·
Trần Thủ Ðộ không làm vua, vì quyền lợi của dân tộc nên ông đã
truất phế vị vua nửa điên nửa khùng.
·
Dân Việt theo Mẫu Hệ chứ không theo Phụ Hệ như Tàu, nên cháu ông
vua điên làm vua thì sao gọi là thoán nghịch được?
·
Dân Việt (nông nghiệp) quan niệm Ðất Nước của dân tộc chứ không
phải của một dòng họ như người Tàu (du-mục)
·
Trong khi đó bên Tàu thì khí thế quân Nguyên (Mông Cổ) đánh nước
Tàu như chẻ tre, nếu ta tôn thờ nhà Lý thì sẽ chết trong tủi nhục, ươn hèn. Vì
không kịp chỉnh trang lại quân ngũ, và kết hợp lòng dân (coi kỹ lại khúc sử này
thì rõ)
Tổ tiên
chúng ta vẫn dạy là:
Chấp kinh
thì phải tòng quyền,
có nghĩa là
giữ lễ nghĩa theo đạo làm người thì tốt, nhưng phải tùy thời, tùy cơ ứng biến:
Khi bình thì
vậy, nhưng biến thì phải xoay.
Xét vậy thì
ông Trần Thủ Ðộ là anh hùng của dân tộc, còn đối với nhà Lý thì ông là người
gian hùng, thủ đoạn.
·
Nhà Trần loạn luân là theo quan niệm Phụ Hệ của Tàu, đôi con dì
lấy nhau được nhưng con chú con bác là đồng tông nên không lấy nhau được. Còn
theo quan niệm Mẫu Hệ (Việt) thì ngược
lại mới đúng....Ngôi phải truyền cho con gái mới đúng, nhưng đây là chuyện
riêng trong dòng họ không phải chuyện của đất nước.
Cuộc vượt
biển của Hoàng Tử Lý Long Tường đã cho chúng ta thấy rằng thời đó con người đã
tinh thông chánh trị trong vùng để tìm vùng đất an toàn mà dung thân. Ðồng thời
thủy lộ cũng đã rành lắm, ngắm sao để định hướng rất chuẩn nên không bị lạc.
Ðừng nghĩ là chúng ta tài giỏi hơn người xưa về phương diện văn minh tinh thần
hay vật chất.
Hiện nay ở
thủ đô Hán Thành bên Cao Ly
có tượng Bạch Mã Tướng Quân để ghi ơn ông đã giúp vua đánh đuổi nhà
Nguyên; không những vậy lại còn có làng riêng cho con cháu của ông nữa. Hàng năm
họ vẫn về Bắc Ninh để thắp hương tưởng niệm trong đền thờ Lý Bát Ðế ở làng Ðình
Bảng.
2. Trần Phế Ðế
(Ðế Hiễn) niên hiệu Xương Phù (1377-1388) đã ra lệnh "Hạ Giáp" (buông
súng) cho quân sĩ muốn cứu ông ra khỏi nanh vuốt Hồ Quý Ly, và chấp nhận thắt
cổ tự tử ....chỉ vì ông không muốn làm vua bù nhìn dưới lệnh của bọn kiêu binh.
²
Ngược lại con cháu Lê Lợi thì lại nghĩ khác:
"Thà
làm vua bù nhìn còn hơn sống làm người có khí phách hiên ngang"
nên 2 con buôn chánh trị là Trịnh
Kiểm và Nguyễn Kim mới lợi đụng để phá nát đất nước, phá tan lòng người chỉ vì
quyền lợi của 2 họ.
Lỗi tại 2 tên gian hùng đã đành, mà
cũng lỗi tại con cháu vua Lê muốn làm vua bù nhìn để chúng lợi dụng ; mà
cũng là lỗi của người dân không sáng suốt
Ø
Ðó là hậu quả của nền giáo dục sai lầm của nhà Hậu Lê. Con cháu tự
cho được quyền cố vị vì ông tổ có công ; mặc dù bất tài…..Vậy thì con cháu
những người đã chết cho ông sống thì ông vỗ ơn hay sao? Vong ân bội nghĩa thì
đâu có xứng đáng làm vua !
Xét
lại thì: Khi dấy binh thì 2 ông này trương khẩu hiệu "Diệt Mạc Phù
Lê" và tôn ông hoàng tử vừa ngu vừa dốt vứa đần lên làm vua để có lý cớ mộ
binh đánh Mạc. Đánh xong rồi giết đi như ông Lê Lợi giết Trần Cao vậy.
Ðánh Mạc xong thì một ông giữ vua
làm bù nhìn để lấy chánh nghĩa, còn ông kia ngồi rình......chừng nào mày hạ bệ
vua thì tao kéo quân trị tội...thế là đất nước chia đôi, lòng người ly tán ngay
từ lúc thành lập cái gọi là "nghĩa
quân" diệt Mạc phù Lê.
Quan niệm này do đâu mà ra? Nếu không phải là do chương trình học vấn đào
tạo nhân tài giúp vua chứ không giúp nước như Việt Cộng chủ trương "Hồng
hơn Chuyên" ngày hôm nay.
Ø
Do đó nếu
chẩn đúng bệnh thì cách chữa cũng không khó lắm đâu.
²
Lời bố Lạc Long:
Bố Lạc Long đã ân cần căn dặn:
"Chừng
nào giặc thù đến cướp phá,
chống đỡ
không nổi thì gọi Bố ơi! về cứ chúng con"
vẫn còn giá trị để phục hồi sức mạnh
tâm linh, kết hợp dân tộc nhờ ở tư tưởng thuần nhất.
·
Giặc ở đây là Tư Duy lạc hướng nên tâm tư mới bất an
tinh thần mới thác loạn, nhìn đâu cũng ra sự yếu kém của dân tộc để đi đến kết
luận là: Dân Việt sinh ra để làm nô lệ cho người.
·
Chừng nào tự mình cố gắng mà chống đỡ không nổi thì hãy gọi bố về
chỉ cách thoát hiểm (cứu chúng con).
·
Cách thoát hiểm của bố Lạc Long chỉ là: Hãy thấm nhuần Việt Học (văn
hóa, tư tuởng, học thuyết thoát hiểm và lịch sử của người xưa) thì ắt thấy đường
thoát hiểm, mỗi thời một khác.
Ðây đúng là loại giặc nội tâm mà Ðức Thánh Trần đã bảo
chúng ta phải cảnh giác. Muốn thoát hiểm thì phải trau dồi Việt Sử do chính người
Việt soạn thì mới có hiệu quả.
Xét ra thì đây
lại là đường lối của Viện Sùng Chính Học do ông Nguyễn Thiếp (La Sơn Tiên Sinh) soạn
chương trình và bài vở giảng dạy; về sau bị vua Gia Long hủy bỏ với câu miệt
thị dân Việt là: Nôm na là cha mách qué.
Do đó nhất nhất, cái gì triều Nguyễn cũng rập khuôn theo Bắc Kinh,
kể cả Luật Gia Long cũng chỉ là bản dịch của luật nhà Thanh áp dụng cho dân bị
trị người Hán.
Ngày hôm nay
Việt Cộng bắt chước y chang với 16 chữ vàng và 4 tốt của Bắc Kinh đưa ra để
thôn tính nước Việt của chúng ta bằng chánh trị.
Vì vậy nên chủ đề của bài này là bàn
về Sự quan trọng của mặt trận Văn Hóa và Tư Tưởng để thoát khỏi
hiểm họa Hán Hóa.
Nay chúng ta chỉ cần nhìn vào chương
trình giáo dục để tuyển chọn công thần ra giúp nước là biết ngay triều đại này
muốn tuyển loại Hiền Tài ích quốc lợi dân hay loại Gian Thần phá nước
giết dân.
²
ÐỊNH NGHĨA
NGÔN TỪ
Ðể mọi việc được rõ ràng, thiết nghĩ
chúng ta nên định cho rõ nghĩa của các ngôn từ sau đây:
A) Thế nào là :
Văn Hóa? Tư Duy ? Tư Tưởng? Triết Lý?
B) Nguồn gốc và
sự khác biệt của Lý Dịch và Kinh Dịch.
C) Di chỉ của văn
hóa.
D) Cách tìm Văn
Hóa người xưa.
E) Nguồn gốc Văn
Hóa từ đâu mà ra?
F) Bàn về cách
thoát hiểm theo lời dặn của cha Lạc Long
Sau khi tìm được
căn nguyên lạc hướng thì lúc đó mới học hỏi kinh nghiệm người xưa để tìm cách
vươn lên bằng người.
Theo lời căn
dặn của 2 vị này thì chúng ta phải cố gắng canh tân tư tưởng, thay đổi tư duy
và học hỏi kinh nghiệm người xưa thì mới đủ kiến thức căn bản để có thể tự cứu
mình thoát nạn Hán Hóa.
Thật vậy: Chúng ta
không thể Canh Tân đất nước với Tư Duy nô dịch Mác-Lê, Tư Tưởng lạc hậu lỗi
thời như Việt Cộng đang cố bám vào bóng ma để tham quyền cố vị với 16 chữ vàng
và 4 tốt được.
Trong thực tế thì mọi việc đều chồng chéo lên nhau như đang sáng
chóe chuyển từ-từ sang tối mù phải qua xâm xẩm tối, không cái gì có thể đang từ
trắng biến ngay thành đen được.
Vì muốn phân chia mọi việc cho có ranh giới để nhìn cho rõ nên
chúng ta phải định nghĩa từng danh từ một cho rõ ràng để tránh cảnh nhập nhằng
rồi đi đến chỗ ngộ nhận.
Ở đây bàn về việc thoát hiểm Hán Hóa
cho dân tộc Việt, nên chúng ta chỉ bàn trong phạm vi quốc gia, dân tộc Việt, chứ
không nói tới cộng đồng hay cá nhân hoặc nhân loại hay các dân tộc khác.
A)- Văn hóa ;
Tư duy ; Tư Tưởng và
Triết Lý
Văn Hóa là gì?
Văn Hóa là nếp sống của một dân tộc; gồm nếp sống vật chất (tiện
nghi do khoa học đem tới) và nếp sống tinh thần (Tư Tưởng sinh ra).
·
Nếp sống là sinh hoạt thường ngày trong cách giao tế và suy nghĩ
của đại đa số người Việt.
Tư Duy là gì?
Tư Duy là phê phán sự việc đã xảy ra theo suy luận của mình.
·
Tư là suy nghĩ kỹ càng với những bằng chứng xác thực, còn Duy là
phê phán.
Tư Tưởng là gì?
Tư Tưởng là ý muốn giải quyết vấn đề theo mục tiêu nào đó mà mình
thấy là đúng, là cần.
Muốn đưa ra dự án giải quyết thì phải có nguyên nhân khiếm khuyết
của sự việc xảy ra (tức lấy Tư Duy làm yếu tố) và phải có kiến thức về sự vận
hành để tránh tính một đằng lại đi một nẻo (tức Triết học là cái vốn để suy đoán
tương lai).
·
Tư là suy nghĩ kỹ càng với những bằng chứng xác thực, còn Tưởng là
ý muốn.
Triết Lý là gì?
Triết Lý là lý lẽ vận hành của vạn
vật.
Triết là môn học về sự vận hành của vạn vật, cái này dưới môi
trường này thì sẽ sinh ra cái kia.......
·
Vậy muốn có Hiền Tài thì phải xây dựng môi trường, điển hình là
một cậu bé 9 tháng ở trong trại mồ côi VN được người Ðức đem về nuôi nấng và
dạy dỗ nay trở thành Phó Thủ Tướng nước Ðức. Nếu cậu đó sống trong môi trường
gian dối của Việt Cộng thì sẽ trở thành kẻ gian hùng vì miếng cơm manh áo: Gần
mực thì đen, gần đèn thì rạng.
²
B) - Lý Dịch và Kinh Dịch bắt nguồn từ đâu?
Lý Dịch là lý lẽ biến hóa của vạn vật nó có tính cách giới hạn theo sự
hiểu biết cá nhân.
Còn Kinh Dịch là nguyên lý biến hóa của vạn vật không bao
giờ sai.
·
Lý Dịch của sắc dân Nông Nghiệp, tức Bách
Việt (trong đó có tổ tiên chúng ta), xem sao trên bàu trời để đoán mùa cầy cấy
hay dự đoán thời tiết và số mệnh cho tương lai.
·
Kinh Dịch của ông Khổng Tử, lấy từ Lý Dịch
của người Việt ra để chứng minh (ngụy biện)
cho thuyết Thiên Mệnh của mình bằng cách diễn giải Lý Dịch theo triết lý
của ông được gọi là "Soán
Truyện"
²
C) - Di chỉ của Văn Hóa
Theo định nghĩa trên thì văn hóa là nếp sống, tư tưởng và cách suy
nghĩ cùng phê phán của dân Việt lấy tình người làm căn bản, vì thuộc sắc dân
nông nghiệp.
Ø
Nên gọi đó là nền văn hóa nhân bản; theo mẫu hệ.
Còn dân Du-mục dựa trên bắp thịt nên có nền văn hóa thiên nhiên:
Mạnh được yếu thua; lý kẻ khỏe bao giờ cũng cứng (luật rừng và luật biển, cá
lớn nuốt cá bé).
Ø
Do đó mới có vấn đề trọng nam khinh nữ; theo phụ hệ.
Văn hóa có từ thời quần cư, cách đây vào khoảng 15.000 năm; tức
váo thời điểm loài người biết cách sản xuất ra thực phẩm. Lúc đó chưa có chữ
viết nên những di chỉ để lại đều bằng bia miệng như cao dao, tục ngữ, câu hò,
tiếng hát hay huyền thoại. Huyền thoại là loại văn xuôi.
Về sau, khi văn minh vật chất thăng tiến thì mới có Văn Chương, Âm
nhạc, Hội họa, Thi ca, Ðiêu khắc ....dùng để ghi lại nếp sống vật chất hay tinh
thần ở thời điểm đó. Nếu nhiều người phụ họa thì nó mới còn truyền cho tới ngày
hôm nay mà ta gọi là di vật, còn không thì nó chết ngủm từ lâu rồi.
Vậy thì:
-
Văn Chương, Văn Học, Âm nhạc, Hội họa, Thi ca, Ðiêu khắc, Kỹ thuật
chỉ là những di chỉ phản ảnh Văn Hóa chứ chính chúng không thể gọi là văn hóa
dân tộc được, nên được xếp vào di chỉ (dấu vết) của Văn Hóa, chứ không thể nào
xếp chúng vào Văn Hóa được.
Tỷ
dụ: Chữ viết không phải là tiếng nói. Tiếng nói là hình (cụ thể) còn
chữ viết là cái bóng (vô hình) của tiếng nói.
-
Danh từ Văn Học có nghĩa là học những cái gì tốt đẹp của dân tộc.
Những bản văn có giá trị đều được xếp vào loại Văn Học như hịch tướng sỹ của
Ðức Thánh Trần, Bình Ngô Ðại Cáo của Quốc Sư Nguyễn Trãi, thơ của thi sỹ Hồ
Xuân Hương, Ðoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du...... Đó là những bản văn thuộc di chỉ của
Văn Học, chúng ta dựa vào đó để tìm hiểu tư tưởng thanh tao và cao siêu của tác
giả và sư phụ họa cũa người dân thời đó.....
Còn những bản văn không có giá trị
hoặc tục tĩu thì đã bị phế thải theo thời gian vì không có người phụ họa, như
thơ Tố Hữu chỉ thịnh hành bằng bạo lực hô hào chém giết cho nhiều dưới triều
Việt Cộng mà thôi. Hay hố xí 2 ngăn của "Bác" Hồ, một ngăn để đi tiểu
còn ngăn khi để chứa phân với mục đích không để cho nước tiểu làm hỏng phân. Đối
với "Bác" thì phân quý hơn vàng vì phân bón được ruộng chứ vàng thì
không......do đó năm 1955-1956 "Bác" cho giải thưởng thi đua ị để lấy
thưởng (coi Nhân Văn Giai Phẩm năm 1956 ở Hà Nội thì rõ là chuyện có thật đó)
-
Còn Việt Học là học về đất Việt và con người Việt có từ ngày khai
quốc (2.879BC).
-
Nhân Văn là học làm người tốt, nghĩa là con người có nếp sống
thanh tú và cao thượng.
-
Chương trình Nhân Văn Việt Tộc là chương trình học làm người Việt
tốt trong thế kỷ Toàn Cầu Hóa này.
Chương trình này chỉ có giá trị lật
đổ bạo quyền bằng chính bàn tay của toàn dân để xây dựng cuộc sống hài
hòa giữa các sắc tộc sinh sống trên mảnh đất Việt Nam hiện nay mà thôi.
P
Muốn như vậy thì phải có chương trình giáo dục đứng đắn mà người
xưa gọi là Chính Học và đoàn ngũ giáo sư Việt Học cần cho 90 triệu người dân để
họ có khả năng trở thành Hiền Tài nhiều như thời Lý, Trần thì mới có thể thay
thế được bọn Ngu Quân hèn với giặc Tàu nhưng lại ác với dân Việt.
²
D) - Cách
tìm Văn Hóa người xưa
-
Muốn tìm hiểu văn hóa thì bắt buộc phải dựa vào những cổ vật của
thời đó thì mới suy ra được nếp sống vật chất và tinh thần của dân Việt ở thời đó.
-
Muốn dựa vào cổ vật để suy đoán thì phải nhờ đến:
P Khoa học để định
tuổi của di chỉ.
P Khoa địa
chất học để biết cuộc sống của nhân loại theo sự trồi sụt của mực nước biển
Ðông (dấu tích còn trên vách đá phủ rêu như ở vùng sa mạc Arizona bên Mỹ, hay ở
bờ biển Normandie bên Pháp).
P Khoa khảo cổ
học để biết rõ niên đại.
P Khoa nhân
chủng học và di truyền học để biết rõ tổ tiên của mình ngày xưa ở đâu và sống
ra sao.
P Huyền Thoại,
ca dao, tục ngữ, thành ngữ để suy đoán tư tưởng thời đó.
P Môn sử học.
Các môn học trên cho ta những bằng chứng khoa học, nên chúng ta có
thể suy đoán ra nếp sống văn minh của người thời đó với xác xuất cao tới trên
80% .
²
E) - NGUỒN GỐC VĂN HÓA
(theo khoa học ngày hôm nay)
Con người lúc đầu sinh ra ở Phi Châu
(phía tây nam nước SOMALIE ngày hôm nay). Với chứng tích khảo cổ mà chúng ta
biết thì loài người có mặt trên trái đất vào khoảng 2 triệu năm nay.
Ở thời xa xưa, bàu khí quyển chưa có
dưỡng khí, các vi khuẩn khi chết đi thì biến thành đá, không bị thối rữa vì
không có dưỡng khí và hơi nước tác động để thành thối rữa như ngày hôm nay.
·
Ðây là hiện tượng hóa thạch mà ta có thể kiểm nghiệm ở vùng núi
lửa ở Pompéi (gần ROMA) bên nước Ý.
·
Lúc khởi thủy thì trái đất là một quả cầu lửa do mặt trời phát nổ
sinh ra vào khoảng 4 tỷ 600 triệu năm nay.
·
Khi nguội thì bên ngoài biến thành lớp cứng gọi là vỏ. Ngày hôm
nay vỏ trái đất dày 980km, sau đó là cùi mềm 1.920km và bên trong là ruột ở thể
lỏng với nhiệt độ rất cao, ở giữa là lõi đầy kim cương vàng bạc là loại có tỷ
trọng nặng nhất. Đường kính là 12.740km.
·
Sinh vật bắt đầu xuất hiện khi trái đất nguội, có vỏ cứng và bàu
không khí lạnh để nước biển rút đi và lục địa hiện ra. Ngoài ra còn phải có dưỡng
khí (oxygène) và hơi nước nữa thì mới có sự sống được.
·
Số lượng nước không thay đổi từ khi có trái đất đến nay. Khi nóng
thì biến thành mây thành khói, lạnh thì biến thành nước còn quá lạnh thì biến
thành băng tuyết nên mức nước biển thấp xuống để hiện ra lục địa cho sinh vật
trên cạn có thể sống được.
Vì con người là sinh vật săn mồi
vụng-về, da lại không có lông nên chỉ sống được ở vùng xích đạo; do đó bộ óc
bắt buộc phải nảy nở để sinh tồn. Cái này chúng ta gọi là sức mạnh của trí tuệ mà động vật khác không có, chỉ vì chúng an
phận sống với khả năng trời cho.
Hơn nữa, nhân số cũng hữu sinh nhưng
vô dưỡng, 3 thóc 1 gạo (đẻ 3 thì chết mất 2, còn lại 1); do đó phải đẻ nhiều.
Lúc này cũng chưa có tiếng nói, mạnh ai nấy sống; đi lang thang kiếm mồi.
Từ ngày kiếm ra lửa (thời kỳ đá ghè
cho vừa với bàn tay) cho tới ngày biết dùng lửa để làm đồ đất nung mà ta gọi là
đồ gốm phải mất hàng chục ngàn năm, lúc này mới đi chinh phục các vùng giá lạnh
là nhờ vào sức mạnh của trí tuệ nó đưa đến tinh thần cầu tiến. Khi sống thành
cộng đồng thì có tình thương mà ta gọi là tình người; đây là sức mạnh của con
tim.
·
Sức mạnh trí tuệ và con tim gọi là
sức mạnh Tâm Linh. (§3-bước chân loài người)
²
Ðến khi biết tự sản xuất ra thực
phẩm để bảo đảm cuộc sống (vào khoảng 15.000 nay, tức #13.000BC) thì lúc đó mới
có cuộc sống quần cư và phát sinh ra tiếng nói, nhân số gia tăng vòn vọt. Trước
đó chỉ có khoảng 3 triệu nhân số trên toàn thế giới mà nay đã thành 7, 8 tỷ
nhân số mà ta gọi là nạn nhân mãn.
Ban đầu, chỉ có 2 nếp sống quần cư
là: Du-mục (sống bằng nghề chăn nuôi gia súc) và Nông-nghiệp (sống bằng nông
phẩm có ruộng để chăm lo).
-
Dân du-mục sống theo đồng cỏ (STEPPE) nên phải di động, do đó có đời
sống du cư. Trung tâm phát triển là vùng Trung Ðông (Iran ngày hôm nay).
-
Dân nông-nghiệp có cuộc sống định cư quanh ruộng. Trung tâm phát
triển là bờ biển Ðông ngày hôm nay (từ Phi Luật Tân vòng xuống Mã Lai, Nam Dương Quần Ðảo)
Vì thế nên lúc khởi thủy chỉ có 2
nền Văn Hóa là: Văn Hóa Du-Mục (theo luật rừng) và Văn Hóa Nông-Nghiệp (tình
người mà ta gọi là nhân bản).
Nước biển dâng
Cách đây 20.000 năm (18.000BC), nước biển Ðông thấp hơn ngày
hôm nay là 130,5 mètres.
Từ biển Ðông (Phi Luật Tân) sang tới IRAN (Trung Ðông) là cánh đồng tuyết phủ
bao la không có sự sống. Việt Nam với Phi Luật Tân và Nam Dương Quần Ðảo là đất liền.
Cách đây khoảng 15.000 năm (tức #13.000BC) nước biển bắt đầu dâng trung
bình là 2cm mỗi năm. Ðến 8.000năm (tức 6.000BC) về trước thì ngưng và mực nước
cao hơn ngày hôm nay là 10,3mètres; vì lúc này bàu khí quyển nóng nên băng
tuyết tan thành nước.
Sau đó bàu khí quyển lạnh trở lại,
nước đóng thành băng tuyết nên nước biển Ðông rút xuống bằng mực nước ngày hôm
nay thì ngưng lại, vào khoảng trên 3.000BC.
Ðây là trận Ðại Hồng Thủy gần chúng
ta nhất. Trước đó từ 14.000 năm về trước đến 8.000 năm về trước thì trái đất có
cả thảy 4 trận Ðại Hồng Thủy.
Nước biển rút
Khi nước biển rút đi thì dân nông
nghiệp khi trước di lên Hy Mã Lạp Sơn và Trường Sơn, nay lại theo triền sông
kéo xuống bờ biển lập nghiệp. Đó là sông Hoàng Hà (qua Pékin), DươngTử (qua Thượng
Hải), Tây Giang (qua Hương Cảng), Hồng Hà (qua Hà nội), sông Mả (qua Thanh
Hóa), sông Cửu Long (qua Chân Lạp, Saigon).
Ø
Xin chú ý : Lúc này
đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long chưa có.
Lúc này dân sống về nông nghiệp ở
vùng đất phía đông mới có cuộc sống quần cư và ổn cư; trong khi đó
thì dân Du-mục ở Trung Ðông có cuộc sống quần cư nhưng du cư theo
cánh đồng cỏ (Steppe) từ đó tiến lên biển Caspienne. Tới đó thì quá lạnh nên
một nhánh tiến về phía tây qua Hắc-hải (mer noire) đến tận Âu Châu.
Còn một nhánh tiến về phía đông qua
KAZAHSTAN (đất của người Kazah), qua Mông Cổ và Mãn Thanh thì gặp biển nên di
xuống phía nam tới sông Hoàng Hà thì gặp sắc dân nông nghiệp mà ta gọi là con cháu Ðế Nghi (huyền thoại)....Lúc đầu
là người Hạ nên gọi là nhà Hạ (#1.700BC) chưa có luật lệ nên không thể gọi là
một Quốc Gia được; họ sống cạnh dân nông nghiệp và thỉnh thoảng 2 bên sang ăn
cướp của nhau vì nhu cầu sinh sống. Về sau, mãi đến tận năm 183BC, Lã Hậu mới
tự đề cao bằng danh xưng Trung
Hoa (trung tâm
tinh hoa của vũ trụ) để đi xâm lăng
với thuyết Thiên Mệnh nên truy thăng thành HOA HẠ cho oai.
Sau nhà Hạ thì đến nhà Thương bắt đầu
từ khoảng 1.500 BC, nhưng phải đợi mãi đến năm 1.300 BC thì 2 bên mới hiểu nhau
qua sự sáng chế ra ký hiệu "tượng hình và hội ý"...Nên nhớ là lúc này
chưa có chữ viết vì chưa có cái nền (mà ta gọi là giấy) để viết lên rồi đem
theo; nên tuy là chữ đấy nhưng chưa viết được thành câu, thành chương, thành
mục, thành quyển sách.
Tuy vậy nhưng luật lệ đã được đặt ra
và Quốc Gia bắt đầu thành hình; trong khi đó ở phía nam sông Dương Tử (tức trường giang) thì
con cháu Lộc Tục (huyền thoại) đã lập quốc để đánh nhau từ 2.879BC, đó là nước
Ngô, nước Sở và nước Việt. (§4- Bài số 2: Văn Hóa Tàu từ Việt mà ra)
Huyền thoại là văn xuôi truyền bằng
bia miệng vì lúc đó chưa có giấy nên có 2 vế:
a.
Phần huyền thoại dùng để chuyên chở thông điệp nên phần này phải
lung linh huyền ảo để ai ai cũng thích nghe và cũng thích kể lại cho con cháu
như chuyện Rồng Tiên, Tiên Dung, Trọng Thủy Mỵ Châu, Trầu Cau........
b.
Phần thông điệp là triết lý câu chuyện. Muốn giải mã thì phải biết
xuất xứ và thời điểm cùng lịch sử lúc đó.
Tỷ dụ: Rồng Tiên Khai Quốc là do 2 ông
Phạm Lãi và Văn Chủng soạn thành tình tiết để tả thời gian sửa soạn đánh nước
Ngô (Phù Sai) vào khoảng 600BC, rồi sát nhập nước Ngô vào nước Văn Lang nên mới
có địa danh núi Ngũ Lĩnh và Hồ Ðộng Ðình; nay vẫn còn. Chỉ có thời điểm đó thì
biên giới phía bắc nước Văn Lang mới tiến tới sông Dương Tử.
c.
Giấy phải đợi mãi đến thời đồ sắt cứng, có cưa để cưa tre thành
từng dóng và có dao để chẻ lạt rồi đan thành mành-mành và viết lên đó. Ði đâu
thì cuốn lại rồi sách đi nên gọi là cuốn sách....như vậy thì không thể sớm hơn
600BC được. Người sáng chế ra giấy đầu tiên là người Bách Việt ở vùng có tre và
nứa. (§5-Bách Việt Tiên Hiền Chí)
Nhà Chu diệt nhà Thương vào năm
1.122BC. Vì muốn diệt tận gốc nền văn hóa chung sống hòa bình nên dân nhà
Thương phải chạy qua Mỹ, tức dân da đỏ ngày hôm nay (người ta biết là do khai
quật đồ dùng thời đó thì thấy cùng tư tưởng với sắc dân nhà Thương).
Vì thiếu người quản lý vùng đất bao
la đã chiếm được nên nhà Chu mới đẻ ra chế độ Phong Kiến (Kiến là nhìn và Phong
là cho), tức nhìn trên bản đồ rồi khoanh vùng, cấp đất cho từng bộ hạ một quản
trị theo luật của họ (mỗi vùng một luật).
Ø
Vì thế nên mới đặt ra tước Công, Hầu, Bá, Tử, Khanh. Dân Việt
không có cái này.
Chế độ Phong Kiến bị Tần Thủy Hoàng
(221BC-208BC) tận diệt để xây dựng chế độ Ðế Chế Toàn Trị (tức chế độ Cộng Sản
ngày hôm nay mà người đẻ ra nó là Vệ Ửng, đời bố ông nội Tần Thủy Hoàng)...tiếp
theo sau là chế độ Quân Chủ độc tài và chuyên chế bao trùm thảm họa cho dân Tàu
từ đó đến nay....đẻ con gái được quyền bóp mũi cho chết!
Lưu ý: Chế độ PHONG
KIẾN chỉ tồn tại dưới thời nhà Chu. Chế độ Quân Chủ không phải là chế độ Phong
Kiến; mà Quân Chủ cũng có nhiều loại khác nhau, không phải loại nào cũng đều
bóc lột cả đâu.
²
F) - Bàn về cách thoát hiểm theo lời cha Lạc Long
Lời căn dặn của bố Lạc Long mà chúng
ta vẫn biết, nhưng vì không hiểu thông điệp này nên coi thường giá trị của
nó....Ðây nhé, bố Lạc Long ân cần căn dặn các con nguyên văn như sau:
"Chừng nào giặc thù
tới cướp phá, chống đỡ không nổi thì gọi bố ơi! về cứu
chúng con"
Có 3 giai đoạn với tình tiết khoa
học và hợp lý. Chẩn bệnh; Thực tâm muốn khỏi bệnh; Uống thuốc thì mới khỏi
bệnh.
§
Hãy chỉ đích danh giặc thù, kể cả giặc u tối trong tâm chúng ta.
Ðó là kẻ thù mẹ đẻ ra muôn vàn kẻ thù con (chẩn bệnh).
§
Coi lại xem chính mình có muốn trực tiếp chống giặc hay chưa? (Thực
tâm muốn chữa).
§
Nếu không được thì bố Lạc Long sẽ kê đơn chữa bệnh cho (Thuốc
chữa bệnh tụt hậu).
Bố bảo: Sức
mạnh Tâm Linh chưa dùng tới. Muốn có thì phải trau dồi Văn Hóa, Lịch Sử, Tư
Tưởng Việt và Học Thuyết thoát hiểm của người Việt cho thấm nhuần thì mới thành
chính quả....Tức là thành người Việt tốt (toàn hảo).
¯
Nhân Văn
Việt Tộc
Thế nào là người Việt tốt ở kỷ
nguyên Toàn Cầu Hóa đang đi tới?
-
Người Việt là người có tinh thần Tự Trọng và Cầu Tiến để
biết cách sống cho mình và sống cho người.
Tinh thần Tự Trọng nằm trong ý nghĩa
của danh từ Văn Lang (Hào Hoa, Phong Nhã; Phóng Khoáng Hào Hiệp; Lịch Sự Bặt
Thiệp), (§9) coi cuốn Phan Bội
Châu tự phán ; cụ đã cám ơn 2 người Nhật giúp Phong Trào Ðông Du bằng danh
hiệu là Thái Lang.
·
Ông Bác Sỹ đã giúp
tiền để cứu mạng 150 người với danh hiệu: Ðại Hỷ Thái Lang.
·
Ông Xã Trưởng đã giúp
công và của để dựng bảng đá ghi ơn ông
Bác Sỹ (nay vẫn còn bên Nhật) với danh hiệu: Ðại Nghĩa Thái
Lang
Còn tinh thần
Cầu Tiến là ý nghĩa của danh từ Việt. Khi lập liên bang gồm 15
tiểu bang (lúc đó, 2.879BC gọi là Bộ Lạc; tức 15 vùng an lạc) thì tổ tiên chúng
ta đã lấy danh xưng là Việt, có nghĩa là phải cố gắng vượt mọi khó khăn để
thăng tiến bằng người. Vì sống trong nô lệ, Thực Dân Pháp muốn hạ nhục nên dịch
chữ Bộ Lạc thành Tribu, trong thực tế thì Tribu là Tù có ông Tù Trưởng của một nhóm
dân không quá ngàn người. Trong khi Bộ Lạc, tức một vùng an lạc thì có ông Lãnh Vương, bên cạnh
có các ông Lạc Hầu (quan văn) và Lạc Tướng (quan võ) giúp sức nên phải gọi đó
là một tiểu bang mới đúng. Bộ là vùng; Lạc là an vui. (§1- bài học số 6 chủ đề
Rồng Tiên Khai Quốc).
Làm sao để
trở thành người Việt tốt?
Muốn thành người Việt tốt thì phải
trau dồi kinh sử nước Việt để biết sự thăng trầm của dân Việt. Ðể biết cách
sống cho mình và sống cho người.
Ðiều này, với phương tiện truyền
thông hiện đại thì không cần phải nắm quyền cũng vẫn làm được; nhất là chúng ta
có một khối lượng không nhỏ người Việt sinh sống ở hải ngoại mà phần lớn sinh
sống ở các nước tân tiến nhất thế giới. Ðó là hậu phương an toàn để giúp tiền
tuyến (trong nước) có đủ vốn về Văn Hóa, Tư Tưởng và Lịch Sử trung thực thì họ
mới đề xướng ra được kế sách thoát hiểm tiêu vong một cách hữu hiệu và khả thi.
Muốn xóa bỏ tụt hậu về vật chất thì
chỉ cần có chương trình Canh Tân Tư Tưởng và sự cố gắng tích cực của Hiền Tài để
kẻ xướng người họa thì mới thành công được.
Vậy thì vấn đề chính là đào tạo Hiền
Tài; việc này chỉ có người Việt mới làm được thôi. Làm sao để có Khí Phách Rồng
Tiên, Văn Hóa Lạc Hồng trong huyết quản, rồi từ đó mới thăng tiến bằng người là
việc làm của toàn thể dân Việt ngày hôm nay.
Do đó, chúng ta phải cùng nhau bàn
bạc về nền Chính Học cho ra nhẽ thì mới đào tạo được hiền tài ra giúp nước. Còn
trông chờ ngoại bang thì chỉ có Nhân Tài Nô Dịch mà thôi,
vì Tư Duy của họ đã bị lai căng, lạc hướng Rồng Tiên rồi.
Ôn cố để
biết đường đi ngày hôm nay:
Ngày xưa cha ông chúng ta đâu có
thua kém người, vậy tại sao chúng ta lại coi thường sức mạnh tâm linh của mình mà đi ca-tụng sức mạnh vật chất của kẻ thống trị ta?
Muốn Canh Tân đất nước ư?....Chúng ta
đâu có thể Canh Tân đất nước với Tư Duy nô lệ và Tư Tưởng lạc hậu, lỗi thời như
Việt Cộng ca-tụng được?
Chúng ta
không cần học thuyết Mác-Lê hay Mao dắt đường, và chúng ta cũng chẳng cần tư tưởng
nô dịch của Hồ Chí Minh hay tư tưởng lỗi thời, lạc hậu của Khổng Tử chỉ lối; mà
chính chúng ta phải có Tư Duy Ðộc Lập và
Tư Tưởng Khai Phóng của kỷ nguyên điện toán để đưa ra đề án thoát hiểm cho
chính mình thì mới không bị tiêu vong như bọt bèo trên sóng biển ở kỷ nguyên điện
tử này. Ðó là những vấn đề sinh tử mà toàn dân phải nhìn thẳng vào sự thật và
cố gắng giải quyềt thì mới thoát khỏi thảm
cảnh Dịch Chủ Tái Nô được.
Chúng ta phải
cương quyềt xóa bỏ nghịch cảnh ngày hôm nay là dân Việt thông minh và có sức
mạnh Tâm Linh không thua kém ai, vậy tại sao ngày hôm nay lại khốn đốn như vầy?
Ø Văn Hóa suy đồi,
Tư Duy nô lệ, Tư Tưởng bệ rạc, thua kém người đủ mọi mặt mà không thấy hổ thẹn
sao?
q
Quay lại chủ đề tiếng nói:
Từ ngày tự
tạo ra thực phẩm, nhân số gia tăng, cộng đồng đông đúc nên tiếng nói phát triển
vì nhu cầu thông tin và truyền đạt kinh nghiệm cho nhau. Sau khi tiếng nói đã
phát triển để có thể diễn đạt tư tưởng một cách văn hoa, bóng bảy thì mới nảy
sinh ra Văn Hóa.
Có lẽ Văn Hóa
Sơ Ðẳng của dân Việt đã bắt đầu từ ngày lập quốc (2.879BC) là do có nhu cầu
ngoại giao để bãi binh, cầu hoà hay nhượng bộ. Hồi đó gọi là Thuyết Khách, nay
là Ngoại Giao.
Xét như vậy thì: Văn hóa và
tâm tính tùy thuộc vào cách sinh sống cho nên tư duy và tư tưởng của mỗi sắc
dân một khác, không dân nào giống dân nào cả.
Ðến khi hội nhập với nhau thì gọi là
giao lưu văn hóa để tạo thành một nếp văn hóa hội nhập cần cho cuộc chung sống
hòa bình.
Bình đẳng thì
gọi là hội nhập, còn bất bình đẳng
thì là nô lệ. Bình thường thì sau
khi chiến thắng bằng bạo lực (quân sự) thì kẻ thống trị luôn luôn tìm cách hủy
diệt văn hóa của người bị trị và thay vào đó bằng nền văn hóa vong nô.....Nhưng
cũng có khi kẻ chiến thắng về quân sự lại chiến bại về văn hóa nên họ tự nguyện
sống theo văn hóa của bên bại binh nhưng lại bóp méo đi để biết thành văn hóa
của mình.
Tỷ dụ: Rồng là sinh vật giả tưởng của dân Việt do đó
có mây, còn Rồng Tàu ăn cắp Rồng Việt rồi bỏ mây đi. Vì vợ con Rồng Tàu là con
gà mái ghẹ, trong khi đó vợ con Rồng Việt là Tiên (sống trong mây) nên người
Việt nói "vùng vẫy như Rồng gặp mây"
mà người Tàu không có ngạn-ngữ này.
Tài liệu tốt
nhất để theo rõi biến thái văn hóa là lịch sử đồ đất nung mà ta gọi là đồ gốm.
Phần lớn là kiếm trong bãi rác người xưa để tìm các đồ phế thải dùng cho việc
bếp núc (§6: Lịch sử đồ gốm). Dựa vào đó thì: Từ ngày khởi thủy cho đến nay văn
hóa thay đổi tùy theo sự hưng thịnh của từng dân tộc một. Khoa học ngày hôm nay
cho biết là:
-
Con người thay đổi hình dạng là do 24 cặp nhiễm sắc thể (Chromosome) thay đổi để phù hợp với môi trường sinh
sống. Trường hợp vụ nổ 4 lò điện hạt nhân ở Tchernobyl bên nước Ukraina.
-
Tâm tính thay đổi tùy theo cuộc sống khó khăn hay dễ dàng.
²
Vì chúng ta là người Việt, nên chúng
ta chỉ nghiên cứu về sự biến thái văn hóa
Việt qua các thời tự chủ và thời nô lệ
với mục đích soạn chương trình giáo dục cho có hiệu quả tốt mà thôi.
Vì văn hóa là
chất liệu để kết hợp lòng người, nên mặt trận Văn Hóa rất quan trọng. Ðối với
dân bị trị thì công dụng của nó là đoàn kết toàn dân, nung nấu tinh thần quật
khởi, đòi lại quyền sống theo văn hóa của mình là dân giàu nước mạnh và chống
lại nền văn hóa nô dịch của kẻ thống trị là muốn biến dân ta thành dân hèn nước
yếu, chấp nhận vong nô.
Do đó, muốn
nói đến độc lập thì phải nói đến độc lập tư tưởng trước tiên. Muốn có tư
tưởng độc lập thì tư duy cũng phải độc lập, nói chung là phải có nếp sống
tâm linh độc lập và phải cập nhật thông tin thì mới thoát được mọi hiểm
họa, trước mắt là nạn Hán Hóa đang đi tới.
Tại sao dân Việt thông minh, hiếu học, lỗi lạc mà lại có tình
trạng tụt hậu này? Phải chăng vì:
Ø Thế hệ cha
ông chúng ta đã lạc hồn dân Việt nên mới có thảm trạng ngày hôm nay?
Vì lạc hồn
dân tộc nên tâm tư mới bất an, tinh thần mới thác loạn; do đó nhìn đâu cũng
thấy sự yếu kém của mình. Nhưng vì tự ái dân tộc nên chối bỏ tinh thần nô dịch:
Mâu thuẫn trong tâm hồn ở điểm này đây. Do đó nên chưa kết hợp lòng người đủ
mạnh để bung phá mọi xích xiềng như tổ tiên chúng ta đã làm.
·
Vậy thì sự suy thoái này bắt nguồn từ đâu? Ðó là
chủ đề của bài học này.
Sau khi tìm
thấy nguyên nhân rồi thì việc xây dựng tư duy độc lập và tư tưởng hợp
thời để thăng tiến cùng người chỉ còn là vấn đề ý chí và thời gian mà thôi.
Quả thực lời
bố Lạc Long căn dặn thật là nhiệm màu. Ðây nhé:
1.
Gian đoạn
một là giai đoạn khó khăn (chấp nhận sai lầm, lời bố Lạc Long: chỉ đích
danh giặc thù nội tâm).
2.
Giai đoạn
hai là ý chí quật khởi tương đối cũng dễ (lời bố Lạc Long là tự cứu
xem sao rồi hãy niệm thần chú).
3.
Giai đoạn ba là thăng
tiến bằng người thì nó chỉ là vấn đề trau dồi kiến thức cần nghị lực mà thôi (đây
là lúc bố Lạc Long vươn tay ra cứu nguy cho dân tộc đấy).
Muốn có ý chí
thì không những phải phục hồi khí phách Rồng Tiên mà còn phải thấm nhuần Văn
Hóa Lạc Hồng nữa. Phần này thuộc niên học năm ngoái: Phục hồi tinh thần Vệt Tộc
để kết hợp toàn dân ; Xây dựng Tư Duy độc lập để tự cứu lấy mình.
Năm nay với
chủ để ôn cố để biết đường tri tân thuộc về 9 bài học lịch sử vừa qua, bài này
dùng để đúc kết năm thứ nhì và làm gạch nối cho niên học thứ ba là: Canh Tân Tư
Tưởng cho phù hợp với thế Toàn Cầu Hóa.
Bài này không
những cho chúng ta biết nguyên nhân của sự suy thoái để biết cách phục hồi tư duy độc lập mà còn cho chúng ta biết
con đường Canh Tân Tư Tưởng cho bằng
người nữa.
²
Luận về
Chánh Triều và Ngụy Triều
Chúng ta vẫn thấy nói tới Chánh
Triều là triều đại có chánh nghĩa phân minh trong việc kế thừa; còn Ngụy Triều là triều đại dùng xảo thuật
hay bạo lực để cướp quyền, tức triều đại không có chánh nghĩa.
Nhưng thế nào
là chánh nghĩa?
· Ðối với sắc
dân du-mục thì quan niệm của họ là "đất của chúa, lúa của trời"...Do đó :
1.
Họ chỉ có Lãnh Chúa. Ông này dùng bạo lực để chiếm đất rồi cho
người đến tá túc làm nô lệ cho ông chúa này nên mới có chữ Trung Quân, tức phải trung
thành với ông chủ trại; mình chỉ là tôi mọi, nhờ ơn mưa móc nên mới có đất dung
thân.
2.
Chiến tranh thì dân chết, thành quả thì Chúa hưởng trọn.
3.
Về sau cần phải liên minh với nhau để thành Quốc Gia thì mới sống
nổi (hợp quần gây sức mạnh), lúc này mới đẻ ra "quốc kỳ" để đi họp với các quốc gia khác.
4.
Quốc kỳ của họ không có nền, là vì bình đẳng giữa các lãnh chúa
với nhau cho nên không có ai là quan trọng hơn ai cả. Chữ Nền có nghĩa là phần
căn bản như nền nhà, nền Văn Hóa, nền tảng Kinh Tế; tiếng Pháp gọi là La Base.
·
Ðối với sắc dân nông nghiệp thì có dân rồi mới có người bảo vệ đất
nước. Do đó:
a.
An dân là chánh, chánh
quyền là phụ (dân là ông chủ, chánh quyền là đầy tớ nên mới có chữ công bộc của
dân)
b.
Chiến tranh thì người dân
hy sinh xương máu để bảo vệ đất nước chứ không phải bảo vệ triều đình. Thành
công thì toàn dân được hưởng, lẽ dĩ nhiên là triều thần cũng được hưởng ké. Vì
thế nên nhà Trần mới nói:
"Ðất
nước là của chung, chia nhau mà hưởng"
Như vậy thì nhà Nguyễn Gia Long là
ngụy triều nên mới tự cho mình ăn trên ngồi chốc mà vong ấn bội nghĩa với con
cháu những người đã hy sinh cho mình có địa vị ngày hôm nay.
Ðiển hình là ông Ðào Duy Từ đã có công sáng chể chiến
lũy Ðồng Hới (lũy Thày) nên mới có nhà Nguyễn.
Vậy tại sao con cháu ông ta lại không
được thừa hưởng công lao của ông tổ nhà mình? Ðúng là cướp công ân nhân, còn
dòng họ những người đã chết để ông sống thì sao không thấy ông ưu đãi họ?
c.
Lúc lập nước Văn Lang để
chống ngoại xâm là quân Ngô, thì chỉ có các Lãnh Vương kết hợp với nhau để
thành Liên Bang mang tên là Việt (=cầu tiến) với sự bàu cử đàng hoàng để tín
nhiệm chức vụ Hùng Vương với nhiệm vụ biến Liên Bang Việt thành chủng tộc Việt
thuần nhất (§4:Văn Hóa Tàu từ Việt mà ra).
Sử chép rõ ràng rằng:
‘Sau khi đánh đuổi Tô Ðịnh ra ngoài
cõi thì Quân Vương các nơi về tụ nghĩa ở Mê Linh và tôn Bà Trưng
Chắc lên làm vua’.
Chữ tôn có nghĩa là bàu để tín nhiệm
người mà mình muốn trao quyền. Chữ chắc
là kén tầm tốt chứ không phải là Trắc, vì lúc bé bà trồng dâu nuôi tầm dệt lụa
nên gọi bà là Chắc, bà em là Nhị.
Lãnh Vương là ông Thống Ðốc Tiểu
Bang (Mỹ) trị nhậm vùng lãnh địa, bên Văn thì có Lạc Hầu, bên Võ thì có Lạc
Tướng.....Trong thời chiến thì Lạc Tướng nắm quyền nên gọi là Quân Vương
d.
Vì quan niệm dân chủ phân
quyền (lệnh vua còn thua lệ làng) nên dân Việt có "dân tộc kỳ" chứ
không có "quốc kỳ" như Tây Phương; mặc dù nước đã được thành lập từ
lâu.
Mà dân tộc kỳ
phải mang nền vàng của tơ tầm, có
nghĩa là người dân Việt là chủ đất nước này chứ không phải triều đình hay đảng
phái làm chủ.
Quốc kỳ là
sáng kiến của dân tây phương vào thế kỷ thứ 14, du nhập vào nước Việt vào năm
1883 với lá cờ Tam Tài (cờ quốc gia Pháp); còn dân tộc kỳ có từ ngày lập quốc Văn
Lang (2.879BC).
Quốc kỳ đầu tiên
của nướ ta là lá cờ quẻ ly (avril 1945) dưới thời chánh phủ Trần Trọng Kim. Trước
đó nước ta chỉ có DânTộc Kỳ và Đế kỳ hay Vương Kỳ mà thôi. Ông Bảo Đại là Hoàng Đế nên lá cờ
Long Tinh là Đế Kỳ chỉ treo trên nóc cung vua mà thôi, còn dân gian dùng Dân Tộc
Kỳ.
Long Tinh là
cờ nền vàng ở giữa có gạch đỏ bằng 1/3 chiều rông của lá cờ. Bằng chứng là
chính Hoàng Đế Bảo Đại đã ký sắc lệnh lấy cờ Quẻ Ly làm Quốc Kỳ thì không thể
ngụy biện Long Tinh là Quốc Kỳ được.
Lưu ý:
Ngày nay chúng ta vẫn nói màu vàng (lụa
tơ tầm) dành riêng cho nhà vua mà ta gọi là Hoàng tộc hay Hoàng gia. Danh từ
này là chiếu chỉ của vua Lý Cao
Tông (1176-1210) hạ chiếu để phân biệt nhà vua với dân dã.
Khi trước sắc phục không có quy chế nhất định. Ông này lên ngôi chỉ lo ăn chơi,
săn bắn, bỏ bê chánh trị, không lo cho dân nên nhà Lý suy tàn từ đây. Hoàng có
nghĩa là màu vàng. (§12: Sách Phan Huy Chú-1820: Mục Lễ Nghi Chí)
Tóm lại:
1)
Ðối với quan
niệm của dân du-mục (Tàu) thì người nào tạo dựng cơ đồ thì đất nước thuộc về
dòng họ đó, cha truyền con nối. Khi không có biến mà tự nhiên thoán nghịch cướp
ngôi thì nhà đó gọi là Ngụy Triều.
Ngụy Triều là không phục vụ dòng họ
của người đã lập nên sự nghiệp; còn đất nước và nhân dân là thứ yếu, vua thương
thì nhờ,vua ghét thì chịu (làm việc chí chết theo khả năng,
hưởng thụ theo nhu cầu vua định tiêu chuẩn)
2)
Ðối với quan
niệm của dân nông nghiệp (Việt) thì Chánh
Triều là người đã có công cứu nước an dân, dòng họ không có quyền kế thừa
nếu người dân không ưa. Và ngay chính người có công cứu nước an dân mà sau này
phản bội làm cho dân hèn nước yếu thì họ cũng mất luôn sự chánh thống và trở
thành Ngụy Triều. Trường hợp tướng phi công Nguyễn Cao Kỳ trở cờ đi điếu đóm kẻ thù
(Việt Cộng) bị hội Quân Nhân VNCH khai trừ ra khỏi quân đội.
Đối với dân
Việt thì : Chánh Triều là Triều
Ðình làm cho dân giàu nước mạnh như Quốc Sư Nguyễn Trãi đã nói trong bài Bình
Ngô Ðại Cáo là:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân"
Hay nghĩa quân Tây Sơn khi làm lễ tế
cờ xuất quân đã nói rõ ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là: "Trừ gian,
diệt bạo; cứu nước an dân". Quản trị đất nước với châm ngôn: "Lấy
Văn Trị hòa với Võ Công" và
mời công thần của chế độ cũ ra giúp nước an dân.
Ghi chú: Triều Ðình
khác với Triều Ðại.
Triều Đình
là chánh phủ, còn Triều Ðại là nói về một dòng họ nối ngôi có sự kế thừa liên
tục...Nay chúng ta gọi là nền khi Hiến Pháp không thay đổi: Nền Ðệ Nhất Cộng
Hòa Ngô Ðình Diệm và Nền Ðệ Nhị Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu; tuy cùng là Cộng Hòa
cả nhưng Hiến Pháp khác nhau dù chỉ thay đổi một điều luật.
- Ðại là đời (tam đại bần cố nông), còn Ðình là nơi họp bàn về việc công ích (đình làng).
- Triều là những buổi họp để bàn việc nước có vua chủ tọa cùng với các đình-thần.
²
Ôn lại sử
Việt về cách
tuyển dụng
nhân tài theo thi cử
Nhân tài có 3 loại:
Ø
Hiền-tài là nhân tài dấn thân cho đất nước.
Ø Gian-thần là người
dùng cái tài của mình để mưu cầu hạnh phúc riêng tư, phá hoại đất
nước.
Ø
Phế-nhân là nhân tài vô dụng, không làm gì cả.
Từ xưa đến nay việc nước bao giờ
cũng là việc lớn, nên có càng nhiều hiền tài bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu;
người ta chỉ nói khủng hoảng nhân tài chứ không thấy nói thặng dư nhân tài bao
giờ cả.
Do đó thế hệ
chúng ta phải có chương trình huấn luyện hiền tài mà nay chúng ta gọi là chương
trình Nhân Văn Việt Tộc (học làm người Việt tốt) để cung ứng cho nhu cầu đất
nước.
Thật vậy: Một người dù
tài giỏi như thánh nhân cũng không thể nào kham nổi mọi việc..Mà chính người
dân phải tham gia sinh hoạt chánh trị của nước chứ không thể ỷ lại vào người
khác được. Ỷ lại vào người tức là trao túi tiền và sinh mạng của mình cho người
điều khiển và mình chỉ là một tên nô lệ bảo sao thì làm vậy. Do đó cần phải
phân chia công tác để người có khả năng góp sức, mỗi người một lãnh vực thì
nước mới tiến và dân mới có hạnh phúc được. Đó là nguyên lý căn bản dưới thời Hùng Vương (Tự-trọng, Cầu-tiến
là 2 đặc tính căn bản của dân Văn Lang)
Ai có năng khiếu về môn gì thì quản
trị môn đó, và tất cả các bộ phận này đều phải ăn khớp với nhau.
P Người lãnh đạo
là người chỉ huy các bộ phận đó làm sao cho chúng vận hành tốt và ăn khớp với
nhau trong mục đích mưu cầu hạnh phúc cho dân.
P Dân là người
được hưởng thành quả do việc quản lý đứng đắn của nền Chánh Trị và cũng là
người chịu hậu quả của việc quản lý sai lầm. Chính người dân góp phần vào sự thăng
tiến hay tụt hậu của đất nước. Thờ-ơ; ỷ-lại hay vô cảm là đưa đến toàn dân nô
lệ, mất quyền sống.
P Chánh trị là
quản trị đất nước một cách
chính trực; chứ không phải là cai-trị người dân như chúng ta hiểu nhầm vì chúng ta
sống trong nô lệ nên nghĩ như vậy.
Tỷ
dụ: Sự vận hành của một nhà máy sản xuất xe hơi:
·
Nhân công là người dân
chỉ biết chỉ đâu làm đó sao cho chu toàn phần vụ của mình.
·
Ban chuyên môn (kỹ sư) sáng chế ra kiểu xe mới và điều khiển sản
xuất, tiêu thụ là những người lãnh đạo cho ra loại xe bán chạy hay không. Đó là
những nhân tài của cơ xưởng, họ trực
tiếp chịu trách nhiêm về sư hưng thịnh của cơ xưởng.
·
Ông Tổng Giám Ðốc là vị Lãnh
Đạo (nguyên thủ quốc gia) được toàn quyền tuyển chọn nhân tài cho ban chuyên môn. Tuyển nhầm để cơ xưởng lỗ-lã, công
nhân thất nghiệp thì ông phải ra đi để người khác thay thế.
Tự
do giáo dục
Quản trị một đất
nước cũng vậy. Người Lãnh Ðạo phải biết thâu nạp hiền tài để cộng tác, và quản trị đất nước sao cho người dân được
an bình làm ăn thì mới có dân giàu nước mạnh được.
Người dân thì
nhìn thành quả cuộc sống của mình mà tín nhiệm chánh quyền hay không.
Vấn đề còn
lại là làm sao hạ bệ được bọn tham quyền
cố vị, cố đấm ăn xôi ? Vậy thì phải nắm dao đằng chuôi; phải chọn thể
chế ngay từ đầu, đừng trao quyền sinh sát cho bọn dâm ô đạo tặc. Do đó người
dân phải có kiến thức cao, muốn có kiến thức cao thì phải đòi cho bắng được một
nền tự do giáo dục
Như thế thì:
-
Chế độ Quân Chủ cha truyền con nối : «con vua
thì lại làm vua con thày chùa đi quét lá đa» không phải là phương thức tốt để
quản trị đât nước.
Ðây là chế độ
Quân Chủ của dân Du-mục; mạnh được yếu thua, quyền hành trong tay bạo lực như
chế độ Cộng Sản cha truyền con nối trên đất Việt Nam ngày hôm nay.
-
Chế Ðộ Dân Chủ Phân Quyền với câu "Lệnh vua còn thua lệ làng"
dưới thời Hùng Vương của sắc dân Nông Nghiệp vẫn là thể chế tốt nhất với điều
kiện phải cập nhật tư duy và tư tưởng của toàn dân để có cái nhìn ngang tầm
thời đại.
KẾT LUẬN
Người dân phải cẩn thận trong vấn đề
xem giỏ bỏ thóc, cân nhắc trước khi ủng hộ xem người Lãnh Tụ đó có tài thâu nạp
hiền tài hay không, đừng trao trứng cho Ác (Ác là con quạ đen thích sát sinh và
ăn trứng)
Muốn xét
người lãnh đạo đất nước, thiết nghĩ không có gì tốt hơn là nghiên cứu chương
trình thi cử và chương trình học hành để đào tạo nhân tài ở thời đó.
²
Tuyển chọn
nhân tài do quen biết
Nước Việt ta từ đời Hồng Bàng (2.879BC-257BC), theo chế độ Dân Chủ Phân
Quyền với câu “Lệnh vua còn thua lệ làng”;
giấy bút chưa có nên sự tuyển chọn chỉ dựa vào kinh nghiệm sinh sống ngoài đời và
học hỏi lẫn nhau mà ta gọi là TRI THỨC.
Trung tâm thông tin chưa có, trường ốc cũng không. Thày dạy thì chỉ có
tính cách gia truyền nên cần phải có tiến cử.....Lúc đầu thì cả thế giới đều như
thế.
Nhà Thục (257BC-207BC) theo chế độ quân chủ chuyên chế.
Nhà Triệu (207BC-111BC) theo chế độ Quân Chủ Ðại Nghị, các quan lo việc hành
chánh và binh bị đều là người bản xứ.
-------------------------------------
Thời kỳ
chống Tàu 111BC-939AD
Vì bị Tàu thống trị nên tư duy lai căng, nhân tài đều là những người
chấp nhận nô lệ, ca tụng ngoại bang và sỉ nhục tổ tiên. Ðây là một loại nhân
tài vọng ngoại mà nay chúng ta gọi là: "Bồi
Tây, Bồi Mỹ, Bồi Tàu …".
Ðọc bài thơ phát bằng Cử Nhân dưới thời nô lệ Tây thì
chúng ta cũng hiểu được là bọn Thực Dân Pháp muốn có loại nhân tài nào đây?
"Trên ghế bà
Đầm cong đít vịt,
Dưới sân ông Cử
ngỏng đầu rồng"
Chú thích:
Bà đầm đi giầy cao gót nên đít cong tớn lên, còn ông Cử Nhân thì đội mũ
cánh chuồn do vua ban để nhận văn bằng ra làm quan cho Tây…..Đầu ông Cử ngang
với đít bà Đầm!
Chỉ khác ở chỗ là không phải trải chiếu lạy người đại diện cho nhà vua để
phát bằng và thề trung thành với họ.
---------------------------------
Thời kỳ tự
chủ (939-1010) - học thuật chưa có
Thời nhà Ngô, nhà Ðinh và nhà tiền Lê thì khoa thi cử chưa có vì kháng chiến mới thành công, nền
tự chủ còn chưa vững nên tuyển nhân tài theo tiến cử hay quen biết mà yếu tố
chính là không có ý mưu phản tiếm quyền.
Do đó nhà vua phải có con mắt tinh đời; chọn phải gian thần thì rất nguy
hiểm; mặc dù vẫn quan niệm người dân giữ nước chứ không phải triều đình giữ
nước. Triều đình tồn tại hay thay đổi dòng họ không quan trọng bằng hạnh phúc
của người dân.
Ðiển hình là: Nhà Ðinh tin dùng Ðỗ Thích và nhà tiền Lê tin dùng ông Lý Công Uẩn và nhà sư
Vạn Hạnh nên có chuyện thay bực đổi ngôi nhưng xã tắc vẫn vững bền: Phía Bắc
người Tàu không dám dòm ngó, phía Nam đánh bại quân Chiêm.
Ø
Người dân
vẫn yên ổn làm ăn và đất nước vẫn trên đà phát triển.
w
1075-1883: Tuyển dụng nhân tài bằng khoa thi
coi thêm
khoa mục chí (§13)
Bắt đầu từ vua Lý Nhân Tông (1072-1127) niên hiệu Thái Ninh
·
Năm 1075 mở khoa thi
tam trường để tuyển 10 người tài giúp vua quản trị đất nước.
·
Năm 1076 cho lập Quốc Tử Giám (Trường huấn luyện thành
phần ưu tú của đất nước), là nơi có thư viện để nghiên cứu học hành, có nội trú
cho người ở xa, tuyển thày giỏi để hướng dẫn khóa sinh thi ra giúp vua quản trị
đất nước. Ngày nay họp tập, ngày mai giúp đời
Ðây là
trường Ðại Học đầu tiên trên thế giới với chủ trương tuyển dụng nhân tài qua
thi cử; ở Âu Châu mãi đến 300 năm sau mới mở trường Ðại Học.
·
Năm 1089 định lại quan
chế chia văn võ ra làm 9 phẩm (1072-1076)
Trong thời nhà Lý trung tâm thông
tin và trao đổi chánh trị đều tập trung vào chợ-búa hay chùa-chiền. Thời đó
phần lớn đều dựa trên Giáo Lý nhà Phật để bổ sung cho Việt Giáo với mục tiêu đào
tạo Hiền-tài giúp nước giúp dân.
Ø
Ðây là triều đại đào tạo được nhiều hiền-tài nên nước Việt mới tồn
tại cho đến ngày hôm nay.
Mặc dù theo
chế độ Quân Chủ Ðại Nghị nhưng học thuật vẫn theo tư duy Toàn Dân Giữ Nước chứ không phải nhà Lý giữ nước.
Vì học thuật
như vậy nên khi bị nhà Trần lật đổ thì Hoàng Tử Lý Long Tường đang làm Ðô Ðốc
Thủy Binh không dương ngọn cờ Diệt Trần Phù Lý mà lại dong
buồm sang Cao Ly xin
tỵ nạn chánh trị. Nay ở kinh đô Séoul (Hán Thành) có tượng Bạch Mã Tướng Quân để ghi công của ông đã giúp dân Cao Ly đánh bại quân Nguyên.
Ngoài ra bên đó còn có làng con cháu của Ngài, hàng năm vẫn cử đại diện về dâng
hương đình Lý Bát Ðế ở làng Ðình Bảng (Bắc Ninh).
Nên nhớ là đạo Phật thời đó là tu xuất-thế cứu đời chứ không giống như
ngày hôm nay là tu yếm thế mũ ni che tai,
xa lánh cuộc đời trần tục. Sự biến đổi này bắt đầu từ chương trình giáo dục của
vua Lê Thánh Tôn
(1460-1497); cho đến ngày hôm nay Phật Giáo vẫn chưa phục hồi được chỗ đứng của
mình trong xã hội Việt. Đây quả thực là bước ngoặt rõ nét của Tư Duy dân Việt
biến từ quan niệm Toàn Dân Giữ Nước (Dân
Chủ hài hòa) sang quan điểm Ðất Của Chúa, Lúa của Trời (Quân Chủ Toàn Trị).
----------------------
Ðời nhà Trần (1225-1400)
có tầm nhìn rộng lớn hơn nên đã thay đổi chương trình học thuật để đào tao
hiền-tài cho đất nước một cách hữu hiệu hơn.
Có lẽ là nhờ tiến bộ văn minh nên
không bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ. Do đó mới hạ lệnh mỗi làng phải xây 1
cái đình làm nơi cho Triều-thần tiếp xúc với dân để giải quyết khó khăn cư ngụ
khi đi thanh tra, thời gian còn lại thì dùng vào việc tụ họp buôn bán, bàn về
việc làng hay làm trường học cho dân làng.
Còn muốn học cao thì lên Kinh vào
nội trú trong Quốc Tử Giám.
Ðình làng là một căn nhà thiệt lớn
có cột, có kèo có mái nhưng trống rỗng, không có tường và chẳng có phòng chi
cả.
Lúc này học thuật là thông hiểu Phật
Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo để vun trồng Việt Giáo sao cho có lắm hiền-tài để
phục vụ đất nước với quan niệm Toàn Dân Giữ Nước chứ không phải Triều Ðình giữ
nước mà người thời đó gọi là Tam Giáo đồng nguyên.
Chữ nguyên có nghĩa là:
·
Toàn vẹn không cắt xén (nguyên vẹn).
·
Lớn nhất (Nguyên khôi là người giỏi nhất,
Nguyên thủ quốc gia là vị lãnh đạo đất nước cao nhất).
·
Vùng đất (trung nguyên, cao nguyên, bình
nguyên).
·
Nguồn gốc, cỗi rễ (nguyên thủy).
Ở đây chữ Tam giáo đồng nguyên có
nghĩa là:
Ø Ba đạo đó
cùng có giá trị như nhau, dùng để tham khảo cho việc cập nhật Việt Giáo.
Chữ NGUYÊN ở đây có nghĩa là 3 tư tưởng
lớn cần phải tham khảo.
Còn nói NGUYÊN là nguồn gốc của học
thuật thì có lẽ không đúng.
Vì 3 cái đạo này xuất phát từ 3 nhà
hiền-triết (triết gia giỏi nổi tiếng) tuy ở cùng thời nhưng quan điểm về triết đôi
lúc cũng mâu thuẫn với nhau. Đó là chưa nói đến những sai lầm trong lý luận của
mỗi vị; nó đúng ở thời đại đồ đồng nhưng chưa chắc còn đúng ở thời đại điện tử
ngày hôm nay. Lão Tử (khoảng 571BC-478BC), Khổng Tử (551BC-479BC) Thích Ca Mầu
Ni (525BC - ?)
Ø Vì quan niệm
Toàn Dân Giữ Nước nên vua Trần Phế Ðế (1377-1388) niên hiệu Xương Phù tính hại
Hồ Quý Ly nhưng âm mưu bị bại lộ nên bị giam trong ngục. Quân sĩ vào ngục yết
kiến thì vua bảo "Hạ Giáp" và chấp nhận cái chết chứ không màng tới
làm vua bù nhìn dưới tay gian thần là Hồ Quý Ly.
----------------------
Ðời nhà Hồ (1400-1407)
với quan niệm tân trang xứ sở nên mới cho môn Toán Học vào chương trình thi
tuyển làm quan; vì thế nên mới có óc sáng chế ra súng thần công (súng đại bác
nạp tiền, tức nạp đạn đằng trước họng súng: Gắn ngòi nổ, nạp thuốc, chít cho
kín, nạp đạn rồi đốt ngòi bắn đạn đi).
Vì lẽ là
gian hùng, thất nhân tâm, cướp ngôi giống Hồ Chí Minh nên các hiền tài bất hợp
tác do đó quân Tàu (nhà Minh) chưa đánh quân đã tự tan hàng rã ngũ. Ðiểm này
phải học Hoàng Ðế Quan Trung phương cách thu phục hiền tài ra sao?
Ø Thời gian
quá ngắn nên không có gì để rút kinh nghiệm học vấn cả.
Kết luận: Bố con ông Hồ Quý Ly là những nhà
khoa học xuất chúng, nhưng lại là những tay chánh trị non nên để người Tàu kiếm
cớ xâm lăng. Cả ngàn năm nô lệ giặc phương Bắc không nguy hiểm bằng 20 nô lệ
giặc nhà Minh (1414-1427)
--------------------------------------
Nô lệ nhà
Minh: 1414-1427
(Nhà Minh là người Ngô, gốc vùng Chiết Giang - Phúc Kiến; trị vì nước
Tàu từ 1368 đến 1628)
Lúc đó người Tàu muốn tiêu diệt dân
ta nên bắt đàn bà, con gái, người giỏi về Tàu để làm nô lệ.
Thành Kim Lăng
ở Bắc Kinh xây bằng xương máu của dân nô lệ Việt Nam, kiến trúc sư là ông hoạn
quan Nguyễn An có bổ phận phải sẽ kiểu và đốc thúc dân công xây cho đúng kỳ
hạn. Có miếng đá tảng thiệt bự kéo từ băng tuyết phía bắc cả ngàn cây số về để
bắc làm cầu.
Miếng đá
phải đục tại chỗ, chờ cho trời lạnh băng tuyết dày đặc thì kéo trên tuyết bằng
cách đi tới đâu thì đào giếng lấy nước tưới vô cho tuyết tan tới đó, rồi kéo
trượt qua.
Công việc kiến trúc này đã nướng
không biết bao nhiêu sinh mạng lao nô người Việt mà kể...Ước chừng phải cần
100.000 lao nô cho công trường này trong vòng 10 năm.
Trong nước Việt thì Bắc Kinh ra lệnh
hủy diệt Văn Hóa Việt đến tận cỗi rễ….Một chữ trên bia mộ cũng phá, đến nỗi nhà
bác học Lê Quý
Ðôn (1726-1784) đã than rằng những sinh hoạt văn hóa nhà Trần khi mới đây mà
nay còn dấu vết nên không biết truy tìm ở đâu.
Học hành thì bị cấm đoán để dân ngu
dễ trị. Dân tình khổ sở vì lao dịch không ngừng, phu dịch và lính tráng bắt cho
đủ số; hình phạt thì khắt khe và dã man như moi ruột; chặt tay chân, khoét mắt
cắt tai (§7 - Hình phạt dã man của bọn Hán Tộc)
Vì nhìn tận mắt những cảnh quá dã man
nên Quốc Sư Nguyễn Trãi mới đưa ra kế « Bình Ngô Sách » mà sách lược đầu
tiên là Công Tâm:
"Ta đây
mưu phạt công tâm,
không đánh
mà người phải khuất"
Có nghĩa là
không đánh bằng bạo lực mà đánh vào lòng người Việt là : Kêu gọi họ sẵn
sàng làm gián điệp cho nghĩa quân Lam Sơn; xúi giặc Tàu làm bậy bằng cách gieo
vào lòng họ sự hoài nghi đối với những tên Việt gian theo Tàu làm hại dân Việt
hay những thủ thuật khác là tùy nơi, tùy việc, tùy sáng kiến của mỗi người.
Ghi chú:
Ông Nguyễn Trãi là tia sáng hào quang còn sót lại trong nền học thuật nhà
Trần. Ðây là nền học thuật mà chúng ta phải nghiên cứu kỹ càng để áp dụng cho
chương trình Nhân Văn Việt Tộc ngày hôm nay thì mới hy vọng huấn luyện được
nhiều hiền-tài giúp nước cứu dân được.
----------------------------------------------
Nhà hậu Lê
(1427-1527)
suy thoái tư
duy bắt đầu từ đây
1/- Vua Lê Thái Tổ, tức ông Lê Lợi (1427-1433) trị vì được
6 năm thì mất, thọ 49 tuổi. Ðây là triều đại coi ngai vàng quan trọng hơn hạnh
phúc của dân, nên ta phải phân tích cho cặn kẽ.
Yếu tố chiến
thắng giặc Minh :
Nhờ vào mặt
trận Văn Hóa do ông Nguyễn Trãi đề xướng với kế hoạch "Bình Ngô Sách":
Lấy công-tâm, chánh-nghĩa và nhân-nghĩa
làm vũ khí để diệt giặc an dân nên Ðại Vương Lê Lợi với sự trợ tá của quốc sư Nguyễn Trãi đã
đuổi được giặc Minh ra khỏi nước ta. Vì thế nên Ngài mới chú trọng đến việc sửa
sang lại nền văn học như:
-
Ðặt ra trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long để huấn luyện
nhân-tài, bên văn phải thi kinh-sử, bên võ phải thi vũ-kinh gọi chung là Minh
Kinh (Minh Kinh là sự sáng ngời của nền chính học).
-
Các Lộ (tức là tỉnh ngày hôm nay) cũng mở khoa thi Minh Kinh để
tuyển chọn những người ẩn dật ra ứng thi làm quan, không phí phạm hiền tài.
-
Ðạo Phật và Ðạo Lão cũng được phát huy và thi cử, ai có trình độ
cao tăng thì mới được mở chùa giảng kinh.
P Đây là ý
kiến của Quốc Sư Nguyễn Trãi được Đại Vương Lê Lợi chấp thuận thi hành.
Tuy bên
ngoài nói là đào tạo sỹ phu cho đất nước, nhưng Ngài lại coi ngai vàng quan
trọng hơn hạnh phúc của người dân: Nghi kỵ hiền tài kể cả công thần, tin cậy
người hữu dũng nhưng vô mưu. Vì thế nên Ngài chú trọng đến Võ hơn đến Văn (Hông
hơn Chuyên ngày nay) nên đã ra tay giết hại công thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm
văn Xảo, nghi ngờ Nguyễn Trãi; giết Trần Cao để dành chánh nghĩa; và dùng toàn
những người chỉ biết võ biền như Lê
Sát không đủ tài trị nước an dân mà được phong lên làm quan
Ðại Tư Ðồ.
Vì thế nên
sau khi chết thì ông Lê Sát
đương nhiên nhiếp chính, vì vua mới có 11 tuổi. Giống như Thái sư Bùi Ðắc Tuyên
với vua Nguyễn Quang Toản của thời Tây Sơn vậy.
2/- Vua Lê Thái Tông
(1434-1442) trị vì được 9 năm thì mất vì bị đầu độc, thọ 19 tuổi (lên ngôi lúc
11 tuổi).
Trong niên đại này việc học vẫn tiếp
tục mở mang là nhờ ở Quốc Sư Nguyễn Trãi vẫn tiếp tục công việc của tiên vương.
Tiến sỹ được khác tên vào bia đá bắt đầu từ đây để tỏ lòng ái mộ nhân tài.
Nhưng sau khi chết đi thì văn học xuống dốc vì triều thần đều là những tên xu
nịnh cầm quyền sinh quyền sát; Quốc Sư Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc để diệt
khẩu.
Phép thi được chia làm tứ trường:
-
Ðệ nhất thi 1 bài kinh nghĩa, 4 bài tứ thư mỗi bài dài ít nhất là
300 chữ.
-
Ðệ nhị thi 1 bài chiếu, 1 bài chế và 1 bài biểu.
-
Ðệ tam thi làm thơ và phú.
-
Ðệ tứ đậu Tiến sỹ làm 1 bài văn
sách dài tối thiểu là 1.000 chữ.
Văn sách là sách lược đấu tranh tỷ dụ
đề ra là:
Ngày hôm
nay, chúng ta phải làm gì và có thể làm được gì để chống nguy cơ Hán Hóa?...
Sỹ tử người
thì bảo hàng giặc, người thì bảo quyết chiến, kẻ nói triệu tập hội nghị toàn
dân để hỏi ý kiến, kẻ thì bảo lùi một bước tiến 5 bước, người thì bảo bày mưu
cho chúng xa bẫy rồi tổng phản công......Tùy theo tài hùng biện của sỹ tử mà
cho đỗ cao hay thấp là do cái nhìn của ban giám khảo tinh thông kim cổ hay đầu
óc bí-xì với tư tưởng vong nô hèn nhát.
Vua Lê Thái Tôn lên ngôi lúc 11
tuổi, quyền hành do võ tướng Lê sát nắm hết. Ít lâu sau ông thu lại quyền hành,
giết Lê Sát đi và
cải tổ hành chánh; nhưng tay chân Lê
Sát vẫn còn đó nên họ thù.
Lợi dụng lúc vua mới lớn lên lại háo
sắc nên các quần thần đem con gái hiến vua làm cung phi. Khi có con thì nịnh hót
để vua phong cho cháu (ngoại) của mình làm Thái Tử (Thái Tử là người nối ngôi
khi vua băng hà).
Bà sau đẻ con trai lại tranh ngôi
Thái Tử của anh; vì thế nên các phe cánh thù hận và tranh quyền với nhau. Rút
cục năm 19 tuổi vua bị đầu độc chết ở Lệ-chi viên (vườn trồng cây vải), loạn
thần vu vạ cho Thị Lộ giết vua, rồi tuyên án chu di tam tộc ông Nguyễn Trãi để
bịt miệng thiên hạ.
Ø Vì thế nên
học thuật xu nịnh được phát huy để đào tạo gian thần bảo vệ ngai mục.
Sau khi vua băng hà thì Thái Tử Bàng Cơ mới có 2 tuổi lên ngôi
(tức vua Lê Nhân Tôn),
và ông nội của nó nhiếp chính. Sở dĩ đầu độc vua là vì nhóm này sợ bà sau có
con trai thì mình mất quyền. Ðó là nguyên nhân của vụ án Lệ-chi viên (§14 :
Việt Sử Khảo Luận - Hoàng Cơ Thụy)...
3/- Vua Lê Nhân Tông (Thái tử
Bàng Cơ) lên ngôi lúc 2 tuổi, bị giết năm 19 tuổi và trị vì được 17 năm
(1443-1459).
Ðây là thời gian đại loạn, hoàng tộc
sát hại lẫn nhau, tính sang Tàu cầu cứu với tư tưởng ‘con vua thì lại làm vua’ nên
chấp nhận thà làm vua nô lệ còn hơn làm dân một nước huy hoàng.
Ø Vì vậy nên
thoái hóa đủ mọi mặt, tuy có một vài cải tổ chiếu lệ, nhưng không đáng kể như
phục hồi danh dự cho những trung thần bị hại, gia tăng bổng lộc để lấy lòng
người thừa hành, cho hưởng lương hưu......
Ðiều này
chứng tỏ nhà vua đã mất lòng dân nên dùng tiền để mua chuộc quần thần, rất nguy
hiểm vì nó sẽ dẫn tới hỗn loạn với nạn tham những, hối mại quyền thế vì lòng
tham không đáy; đây là một loại kiêu binh dân sự không kém gì kiêu binh quân
sự.....
Ngày hôm nay
Việt Cộng đang dùng xã hội đen để khống chế người dân nên tình trạng mỗi ngày
mỗi bi đát thêm.
Cuối cùng
nếu không khéo thì trong Đảng sẽ thanh toán nhau vì quyền lợi phe nhóm, nhưng
lại núp dưới nhiều mỹ từ như: Trừ Bạo cứu dân; rút cục tình trạng sẽ bi đát hơn
vì bọn gian hùng tham quyền cố vị và hậu quả sẽ tai hại như khúc lịch sử này
vậy.
v
Bước ngoặt Tư Duy trái chiều
(biến dân chủ phân quyền thành quân chủ chuyên chế)
4/- Vua Lê Thánh Tôn, tức hoàng từ
Tư Thành (1460-1497):
Nhân vô thập
toàn, có nhầm thì cũng là chuyện đương nhiên vì giới hạn của kiến thức. Mặc dù
ông là vị vua anh minh và chăm lo hạnh phúc cho dân, nhưng ông chủ quan nên nghĩ
là con cháu của ông cũng lo chăm sóc cho dân vậy nên áp dụng nền Quân Chủ
Chuyên Chế cho nó mạnh (với điều kiện là có minh quân)
Nhận xét về 535 năm tụt hậu! (1479-2014)
Vị vua mà
chúng ta vẫn ca tụng là anh minh, xuất chúng mà đường lối học thuật lại sai lầm
để đi đến thảm trạng ngày hôm nay với nguyên nhân chính là: Tư Duy lạc hướng.
Thay vì đào tại Hiền-tài cho đất nước thì lại đào
tạo "tôi trung cho nhà Lê" nên sau này trở thành bọn Ngu Trung và
Gian Thần đã làm cản trở bước tiến của dân tộc từ đó đến nay.
Vị chi trên 5 thế kỷ dân Việt đi thụt lùi không
biết đến bao giờ mới thoát khỏi Tư Duy nô dịch từ 1479 đến nay (2014); tức tụt
hậu đã được 535 năm rồi, thật là kinh hãi!
Ø Ðó là nguyên nhân gây ra thảm trạng ngày
hôm nay, vì Tư Duy lạc hướng và Tư Tưởng
lạc
hậu nên con cháu gỡ mãi chưa được vì người gỡ thì ít, ngu trung và gian thần
thì nhiều.
& Nói rằng
trung với vua Lê mà lại đi thi làm quan cho Chúa Trịnh để Chúa trịnh uy hiếp
vua
Lê
thì thật là khó hiểu cái kiểu Trung
Thần này !
Người gỡ là:
(1)
Mạc Ðặng Dung (hướng về
ngoại thương năm 1527),
(2)
Hoàng Ðế Quang Trung (hướng về Chính Học, lập Sùng Chính viện
1790).
(3)
Cố vấn Ngô Ðình Nhu (hướng về học thuyết Nhân Vị năm 1962)
Đó là những lãnh tụ sáng giá đã nhìn
thấy cái sai lầm này nên đã đề ra chương trình Chính Học nhưng chưa thành thì chế
độ chết yểu vì những nguyên nhân khác nhau.
Khúc lịch sử
này chúng ta phải nghiền ngẫm cho thật kỹ và thật sâu thì mới hy vọng thoát
hiểm được.
Một thế hệ
làm chưa xong thì các thế hệ sau nối tiếp vì vạn sự khởi đầu nan, nhất là canh
tân Tư Tưởng và thay đổi Tư Duy để cập nhật với văn minh hiện đại là việc làm
rất khó, phải bền chí mới xong; còn không thì dân Việt sẽ tiêu vong trước
sự thi đua thăng tiến của các dân tộc khác theo đà tiến vọt của văn minh điện
tử, mà mình thì cứ thụt lùi càng ngày càng nhanh!
²
Xét lại
chuyện đã qua
Trở lại thời
điểm vua Lê Thánh Tôn
lên ngôi (1460)
§
Năm đó Ngài 18 tuổi, trị vì được 38 năm và thọ 56 tuổi
(1460-1497).
§
Trong thời gian trị vì, Ngài đã cải tổ được rất nhiều việc và
thành công trong việc chỉnh đốn lại rường cột quốc gia.
§
Về Văn học thì sửa đổi phép thi để tuyển chọn Trung Quân, còn ái quốc thì đã
có vua lo; tức biến quan niệm dân chủ phân quyền sang chế độ quân chủ toàn trị
(khác với chuyên chế). Toàn trị là tự mình quyết đoán mọi việc trước khi tham
khảo quần thần, còn chuyên chế là độc tài chẳng nghe ai cả.
Hoàng tử Tư Thành và mẹ đã bị vua cha
ra lệnh hành quyết về tội toan cướp ngôi, chỉ vì bà mẹ của ông nói là nằm mê
thấy Ðức Phật hiện ra và nói sau này con bà sẽ nối nghiệp.
Nhờ quốc sư
Nguyễn Trãi hết lòng can thiệp nên mẹ con chỉ bị khai trừ ra khỏi hoàng tộc và bị
đưa vào chùa để đi tu, xa lánh trần tục.
Ðến năm 18 tuổi (1460) bỗng dưng ngài
được quần thần đem kiệu đến đón ở chùa về để tôn lên làm vua trong lúc triều
thần đang mưu hại nhau để tranh ngôi. Vua (Hoàng tử bàng Cơ) và bà thái hậu vị
giết trong cung bởi người anh cùng cha khác mẹ là Nghi Dân đã được phong làm
thái tử rồi; nhưng mẹ ông
Bàng Cơ lại ton hót để truất quyền Thái Tử và lưu đầy mẹ ông
này.
Ðây là điểm
hy hữu nên cần phải mổ sẻ để xem nguyên nhân như thế nào, và Hoàng tử Tư Thành đã
đòi yêu sách gì để tránh nạn kiêu binh?
²
Vì biến cố trong triều, anh em giết
hại nhau rồi sang Tàu cầu cứu, trong lúc giặc Chiêm đang đánh chiếm Nghệ An và
sắp đến Thanh Hóa đào mả vua Lê, đập tan lăng miếu nhà Lê.
Vì thế nên
sau khi vua và thái hậu bị giết quần thần mới đem kiệu ra năn nỉ hoàng tử Tư
Thành lên làm vua…..Nhưng hoàng tử Tư Thành ra điều kiện là ông phải có thực
quyền.
Khi lên ngôi thì miếu hiệu là Lê Thánh Tôn (tôn là cháu;
nhưng vì phạm húy nên gọi trại thành tông), và thay đổi ngay chánh sách học vấn
để tuyển chọn nhân tài giúp vua cứu nước....Có nghĩa là dù vua làm sao thì cũng
phải trung thành với vua; còn việc an dân đã có vua lo. Tức Hồng hơn Chuyên của
chế độ Việt Cộng ngày hôm nay, việc nước là do Ðảng quyết định, dân đừng lo đã
có Đảng lo rồi cứ yên tâm đi!
Nền học vấn này chuyển sang quan
niệm: Ðất của Chúa lúa của trời
thay cho quan niệm đất của dân và do dân bảo vệ như thời
nhà Lý Trần nên nhân tài đào tạo lúc đó không những nhiều mà còn đều là các bậc
Hiền Tài cả.
Ðã nhiều lần các vị vua nhà Trần nói:
"Thiên Hạ là của chung, chia nhau mà hưởng"…Hàm ý là đất Việt của dân
Việt cùng làm và cùng hưởng.
Vì sợ bị thoán nghịch nên việc học
chuyên về Trung Quân:
Do đó hạ nhục đạo Phật, đạo Lão và các đạo khác đề cao con người. Tuy việc học
phát triển đào tạo được nhiền nhân tài Hồng hơn Chuyên như Việt Cộng ngày hôm
nay, nên sau này con cháu không đủ khả năng mới chấp nhận thân phận: "Làm
vua Bù Nhìn để hưởng phú quý"
Hậu quả của
sự thay đổi tư duy
Vì môi trường thuận tiện nên bọn ngu-trung
và nịnh-thần mới có đất sống dưới chiêu bài: Trung với nhà Lê nhưng lại đi làm
quan cho nhà Trịnh để họ Trịnh cai quản vua Lê Bù Nhìn.
Giống như
Việt Cộng ngày hôm nay là: Thà mất nước cho Tàu để giữ đảng còn hơn là mất đảng;
do đó mới có khẩu hiệu: Lực Lượng Võ Trang, quân đội và công An bảo vệ Ðảng để "còn đảng thì còn ta" mà còn
có nhiều người ca tụng chánh sách ngu dân này?
Ø
Ðiểm này sẽ nói vào mục nhà Lê mạt (vận), từ năm 1532 đến năm
1788.
v
Nhà Mạc (1527-1592)
Nhà Lê nắm quyền vừa tròn 100 năm (1427-1527),
tổng cộng 10 ông vua, trong đó chỉ có 2 ông đã lớn tuổi mới lên ngôi là ông Lê Thánh Tôn 19
tuổi và ông Lê Hiển
Tôn 37 tuổi, còn lại toàn là ấu chúa cả nên làm nhiều điều thất nhân tâm và ác đức;
vì thế nên mới bị Mạc Ðăng Dung truất phế. Mạc Ðăng Dung là hậu duệ của Trạng
Nguyên Mạc Ðĩnh Chi (1272-1346) dưới thời vua Trần Anh Tôn (1293-1341), tức
Thái tử Trần Thuyên
Theo quan niệm của dân Tàu (du-mục)
thì đó là thoán nghịch. Còn theo quan niệm của dân Việt (nông nghiệp) thì
chuyện hưng phế là bình thường vì người dân làm chủ đất nước chứ không phải
triều đình giữ nước.
"Dân tộc vạn đại, nhà vua nhất thời"
Nếu vua bất
tài không đủ khả năng đem hạnh phúc đến cho dân thì đó là lúc nước lật thuyền.
Vì quan niệm như vậy nên người dân mới ủng hộ việc Mạc Ðăng Dung lật đổ ông vua
bất xứng này
Đáng lý ra thì các hoàng tử nhà Lê nên noi gương hoàng tử
Lý Long Tường mới đúng. Ðằng này lại sẵng sàng ra làm bung xung để Trịnh Nguyễn
lợi dụng. May mà còn 2 Chúa tranh nhau nên hư vị vẫn còn; bằng không thì giống
vua Lê Thái Tổ
giết Trần Cao vậy.
Vì vậy chúng ta không lấy gì làm lạ
khi nhà Nguyễn Gia Long hạ nhục ông Mạc Ðăng Dung và con cháu của ông, rồi tự đề
cao dòng họ nhà mình là quý tộc. Thật vậy: Gia Long có tự ty, mặc cảm thì mới đem
cả dòng họ nhà mình từ nhà Đinh ra để núp bóng. Nếu có thực tài cứu nước an dân
thì chẳng vị vua nào lại đi đem dòng họ nhà mình ra khoe cả.
Gia Long chê Mạc Ðăng Dung là: Bất
trung, hèn nhát tự trói mình nộp mạng như Câu Tiễn (để mưu cầu hạnh phúc cho
dân) mà không biết nhục...Vậy, Gia Long cướp ngôi nhà Lê thì có bất trung hay
không? Gia Long nhờ quân Xiêm La (Thái Lan, biếu họ vùng đồng bằng sông Cửu
Long nếu chiến thắng) và quân Pháp đánh Tây Sơn để biếu nước cho họ thì có nhục
không?
Do đó, khi đọc
sử phải biết tác giả viết vì lý do chánh trị hay vì lý do trả lại sự thật cho
lịch sử. Ngoài ra còn phải dùng tư duy độc lập của mình thì mới rút được kinh
nghiệm để giải quyết vấn nạn ngày hôm nay. Còn học sử như con vẹt thì chẳng bổ
ích gì cả, vì đó là loài mọt sách dùng khoa bảng làm cần câu cơm ăn. Học như
vẹt, mất nước là đúng.
²
Nay xét về
mặt học thuật thì nhà Mạc có tổ chức những khoa thi để tuyển nhân tài giúp dân,
trong đó có ông Nguyễn Bỉnh Khiêm người làng Trung-an, huyện Vĩnh-lại nay là
huyện Vĩnh-bảo tỉnh Hải Phòng đỗ Trạng Nguyên năm 1535, nên gọi là ông Trạng
Trình. Danh tiếng vẫn còn truyền tụng cho tới ngày hôm nay.
Xét về thể
lệ thi cử dưới thời nhà Mạc thì biết những lời đồn đại của Nguyễn Hoàng là
những điều dựng đứng để tuyên truyền cho chánh nghĩa cho mình.
-
Mục đích thi là để tuyển chọn nhân tài ra giúp vua quản trị đất
nước.
-
Cách thức, thể lệ và kiến thức đã được quy định từ trước, nay khảo
lại bằng những bài viết trắng đen rõ rệt.
-
Ban Giám Khảo chấm đỗ thì vua bắt buộc phải bổ nhiệm như trường
hợp ông Mạc Ðĩnh Chi nhà Trần, do đó vua định sỹ số tuyển chọn cho đúng với nhu
cầu của mình.
-
Thí sinh khi trúng tuyển rồi thì phải làm lễ tuyên thệ không được
phản bội nhà vua và bắt buộc phải nhậm chức; còn chê là mắc tội khi quân (tức
coi thường nhà vua).
Nếu về sau
thấy không được thì trả ấn tín và treo áo từ quan đi ở ẩn. Những người này gọi
là bề tôi của vua nên biết tất cả bí mật quốc gia, nếu làm loạn thì bị tru di
tam tộc (tức cha mẹ, anh em, vợ chồng con cháu của tử tù đều bị tử hình theo
luật tang chế, liên hệ gia tộc theo loại khăn tang). Còn người dân thì tội ai
nấy chịu.
Như vậy thì ông Nguyễn Hoàng đã dựng đứng
lời tiên tri của ông Trạng Trình để lấy cớ chia đôi đất nước và chia đôi dân
tộc chỉ vì Trịnh Kiểm cướp công của bố mình là Nguyễn Kim.
Thật vậy, trước khi quyết định phò
vua giúp nước thì ông Nguyễn Bỉnh Khiêm cho nhà Mạc là chánh triều nên mới ứng
thí. Về sau thấy 2 tên gian hùng là Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim núp dưới chiêu bài
Diệt Mạc Phù Lê đã dụ được dân theo, do đó mới xin treo áo từ quan về chùa tu
Phật. Ông ta có tinh thần dân tộc, yêu nước thương dân nên không bao giờ ông
lại mách kế cho kẻ gian hùng để chia đôi lòng người, chiến tranh triền miên cả.
Vì nhu cầu chánh trị nên Nguyễn Hoàng
tung tin này ra để chạy tội dã gây đau khổ cho toàn dân chỉ vì muốn chiếm đoạt
ngôi vua với bất cứ giá nào như Việt Cộng ngày hôm nay vậy. Ông Nguyễn Hoàng
tung tin là: Sấm Trạng Trình tiên đoán được 300 trăm và ông Trạng Trình đã:
1. Khuyên Trịnh Kiểm: "Thờ
bụt thì có oản mà ăn".
Thực ra thì
ông Trịnh Kiểm không thỉnh ý ông Nguyễn Bỉnh Khiêm bao giờ cả. Vì 2 con buôn
chánh trị là Trịnh Kiểm và Nguyễn Kim đã biết từ ngày lập binh dấy nghiệp là đất
nước sẽ chia đôi; ai giữ vua thì lo việc nước, còn ai bị gạt ra ngoài thì hùng
cứ một phương để chờ dịp lật vua là phỗng tay trên. Ðã là con buôn chánh trị
thì ai xúi dục cũng không làm; còn nghe lời người khác là kẻ ngu. Mà đã ngu rồi
thì không đủ sức làm đại sự được.
2. Khuyên Nguyễn Hoàng:
"Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân".
Thực ra thì ông
Nguyễn Hoàng lúc đó không lên chùa gặp ông Trạng Trình vì sợ âm mưu bại lộ thì
mất đầu như người anh Nguyễn Uông. Lúc đó Nguyễn Hoàng đang bị Trịnh Kiểm theo
rõi sát, chỉ chờ có lý cớ âm mưu phản nghịch là giết đi rồi lật nhà Lê, dựng
lên nhà Trịnh.
Nếu chúng ta
là ông Trịnh Kiểm thì cũng nghĩ như vậy. Ðã giết cha và anh người ta rồi thì
người ta phải oán là chuyện đương nhiên. Chưa truất quyền được vì chân tay của
Nguyễn Kim (bố Nguyễn Hoàng) còn mạnh. Hơn nữa một tên chọc trời khuấy nước,
tham vọng làm Lãnh Tụ thì chẳng nghe ai xúi dục cả......Còn phải đi nghe người
khác vạch đường chỉ lối thì không đủ sức để làm lãnh tụ, có nghe cũng thất bại
mà thôi.
²
Trịnh Nguyễn
phân tranh đúng 256 năm (1532-1788)
với 10 trận chiến nướng trên 10 triệu thanh niên: Đất nước suy vi,
dân tình điêu đứng!
Ðây là thời kỳ đen tối: Dân Việt suy
thoái, tự hủy bằng cuộc nội chiến dai dẳng và đẫm máu. Tiềm lực bị tiêu hao,
lòng dân ly tán, chỉ có lợi cho ngoại bang xâm lăng mà thôi.
Ø
Vì thế nên
không ngóc đầu lên nổi.
Hai bên lấy sông Gianh ở Ðồng Hới (tỉnh
lỵ tỉnh Quảng Bình) làm ranh giới đánh nhau liên tục trong 256 năm trời; tiêu
hao trên 10 triệu thanh niên và hủy diệt tiềm năng vươn lên của dân Việt chỉ vì
quyền lợi của 2 dòng họ Trịnh và Nguyễn.
Ông Đào Duy
Từ chỉ vì háo danh, thèm khát chức tước nên đã vẽ kiểu giúp chúa
Nguyễn xây chiến lũy Đồng Hới để ngăn quân Trịnh tấn công. Đối với nhà Nguyễn
thì ông là bậc đại công thần, nhưng đối với dân Việt thì ông có tội làm tiêu
hao tiềm lực; vì dân Việt quan niệm hạnh phúc của dân là quý, nhà nào làm vua
cũng được. Ông là dân nhà Trịnh, chỉ vì luật Hồng Đức (1460) cấm không tuyển
con và cháu của bọn xướng ca hay tử tù ra làm quan nên ông bất mãn, trốn vào đàng
trong theo chúa Nguyễn để xin chức trọng quyền cao cho mình…Về sau con cháu của
ông cũng bị các chúa Nguyễn vong ân, bạc đãi.
Đàng ngoài (phía bắc sông gianh)
·
Ở đàng ngoài thì họ
Trịnh giữ vua Lê làm bùa hộ mệnh để tránh đẩy chánh nghĩa về tay Nguyễn Hoàng.
Nếu không có Nguyễn Hoàng chực sẵn để phỗng tay trên thì Trịnh Kiểm đã dứt vua
Lê để dựng lên nhà Trịnh rồi.
Ø
Cái điều khó hiểu là tại sao lại có những ông vua Lê chịu thân phận bù
nhìn để hưởng thụ nhỉ?....Mạng sống của mình như cá nằm chốc thớt của bọn
"kiêu binh". Có được hưởng thụ cái gì đâu mà ham!
Ø
Dòng dõi nhà Ðinh, Lê, Lý và Trần có ai làm như vậy đâu.
Sự học hành
thì chúa Trịnh vẫn lo tuyển chọn nhân
tài theo đóm ăn tàn: Làm quan cho chúa Trịnh mà lại hãnh diện là bề tôi
trung thành với nhà Lê......Thật là khó hiểu cái đám ngu trung, nịnh thần này;
trong đó có ông Lê Quý
Ðôn, ông Nguyễn Du và ông Nguyễn Thiếp nữa. Trung với vua bù nhìn nhưng thất
hiếu với dân, làm tôi kẻ chuyên quyền!!!!
Đàng trong (phía nam sông Gianh)
·
Ở đàng trong thì Nguyễn Hoàng chỉ rình-rình đợi khi nào họ Trịnh hất cẳng vua Lê lập
nên nhà Trịnh là kéo quân ra hỏi tội rồi xóa luôn nhà Lê để lập nên nhà Nguyễn.
Vì thế nên nhà Nguyễn chỉ xưng chúa nhưng vẫn thần phục nhà Lê; lấy niên
hiệu vua Lê trong các công văn nhưng lại quỵt thuế và chẳng thăm hỏi chi cả.Đây
là một loại nghịch thần!
Ø Sự học không
có gì đáng nói vì không có thi cử, tuyển người theo quen biết
²
Nhà Tây Sơn : 1778-1802
(coi thêm số
8: các ngôi sao Tây Sơn)
Trong lúc
chiêu mộ nghĩa quân ở chiến khu An Khê (khoảng 10 năm) thì anh em Tây Sơn có đón
người về dạy võ và dạy văn cho nghĩa quân với khẩu hiệu:
P
Trừ gian,
khử bạo, cứu nước an dân.
Khi đủ quân số thì chính thức phất cờ khởi
nghĩa (1771) đánh huyện Tuy Viễn và huyện Phù Ly rồi thửa thế đánh chiếm thành Quy
Nhơn. Sau đó phải đánh chiếm luôn Phú Yên (phía nam) và Quảng Ngãi (phía bắc) để
bảo vệ thành quả. Sau đó thì kêu gọi hiền tài giúp sức với đường lối chánh trị
là:
P Dùng văn tài
hòa với võ công
để an dân và biến nhân tài ngu trung cua đối
phương thành hiền tài cứu nước an dân.
Tuy nhà Tây Sơn có tài khai dụng nhân tài đối
phương thành hiền tài cứu nước an dân nhưng việc thi cử vẫn chưa được tổ chức,
mặc dù ông Nguyễn Nhạc đã xưng Ðế vào năm 1778.
Lý do: Chỉ vì chưa ổn định
chính trị xong nên việc khoa cử chưa có ai lo cả. Phải đợi mãi đến năm 1789 khi
ông Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế kéo quân đại phá 29 vạn (290.000) quân Tàu nhà
Thanh trong 5 ngày, thống nhất đất nước thì lòng người mới thuận về môt mối. Lúc
đó mới lo đến khoa cử để phát triển hiền tài cho đất nước.
Về điểm thống nhất lòng người thì phải bái
phục ông Nguyễn Huệ. Ông đã chuyển từ thế
gian hùng thành thế anh hùng (lời
ông La Sơn
phu Tử) bằng cách gài cho đối phương rước voi về dày mồ như Nguyễn Ánh chia
nước với Thái Lan (Xiêm la) hay Lê
Chiêu Thống rước quân nhà Thanh về làm khổ dân ta. Nhưng rất
tiếc là Ngài ra đi quá sớm nên công lao đã bị phá nát bởi Nguyễn Ánh với khẩu
hiệu bài Việt để vọng ngoại: "Nôm
Na là Cha Mách Qué"
Chủ trương của anh em Tây Sơn vẫn trước
sau nhứ nhất là: Thâu nạp hiền tài để:
"Phục
hồi dân khí và nâng cao dân trí"
theo quan điểm: "Toàn Dân Giữ nước" chứ không phải triều đình giữ nước.
Ðiển hình là
Hoàng Ðế Quang Trung có vời nhà hiền-triết Nguyễn Thiếp ở La Sơn (Nghệ An) ra cộng tác với triều
Tây Sơn rất nhiều lần, nhưng ông nại cớ không ra vì đã ăn lộc nhà Lê rồi nên
không thể đi bước nữa được. Cuối cùng Hoàng Ðế phải viết thư úy lạo đại khái
như sau:
" Làm tôi trung với vua, hiếu với dân là điều đáng kính phục
và đáng khuyến khích; nhưng nay nhà Lê đã suy vi không lý Ngài bỏ phí tài năng
không ra cứu dân giúp nước hay sao?
Triều Tây Sơn tồn tại hay suy vi thì không quan trọng bằng hạnh
phúc của người dân và an nguy của đất nước.
Vì thế nên
Trẫm mong mỏi Ngài nghĩ lại mà xuất-thế khai trí cho dân vì người dân giữ nước
và tự bảo vệ quyền sống của mình chứ không phải nhà Tây Sơn bố thí an bình cho
họ.
Vì lý do này
nên Trẫm ra chiếu thành lập Sùng Chính Viện với nhiệm vụ phát huy Văn Hóa chính
gốc để khai tâm và khai trí cho dân, mong Ngài nhận chức Viện Trưởng với tước La Sơn Tiên Sinh.
Ngài đã nói
vì tuổi đời quá cao nên di chuyển khó khăn, vậy thì Trẫm ra chiếu thành lập
viện Sùng Chính ở ngay nơi Ngài cư ngụ. Và đồng thời cũng chỉ định Ngài làm
chánh chủ khảo cho các kỳ thi hương để bày tỏ lòng kính trọng hiền tài đất Bắc
của Trẫm".
w
Khi thống nhất đất nước xong (1788) thì lo ngay việc khoa
cử bằng chương trình Chính Học do ông Nguyễn Thiếp và ông Ngô Thì Nhiệm hợp tác
để phát huy chương trình Nhân VănViệt Tộc với mục đích học để có khả năng tự
bảo vệ lấy hạnh phúc của mình, còn nhà Tây Sơn sống hay chết là chuyện phụ.
Triều đình hưng phế là chuyện bình thường, nhưng hạnh phúc của dân mới tối quan
trọng vì Quan nhất thời, Dân vạn đại.
Chương trình này ở thời điểm đó
rất hay, nên học hỏi. Ðây là chương trình của ông Nguyễn Thiếp và ông Ngô Thì Nhiệm đề ra
rồi đệ lên Hoàng Ðế Quang Trung phê chuẩn để thực thi.
Ðại khái như sau vì đã bị nhà Nguyễn Gia Long đốt sạch cả rồi.
P Chỉnh trang lại Phật giáo để đối
kháng với Ki-tô giáo. Ai thông thạo Phật học thì mới được giữ chùa giảng kinh để
mở rộng kiến thức cho dân.
Chùa do chánh quyền cấp và trùng tu
cho khang trang, còn các sư thì có ruộng trồng trọt để tự túc mưu sinh. Phật tử
đến học đạo thì chỉ mang hương hoa đến lễ Phật chứ không được mang tiền đến
cúng sư. Nói cách khác là phục hồi giáo lý nhà Phật để chống Ki-tô giáo.
P Giáo Sỹ Ki-tô: được tự do
giảng đạo để bắt liên lạc xem kỹ thuật Tây Phương tiến đến đâu.
Ðây là tự do tôn giáo, theo hay
không là tùy ở người dân. Nếu Phật Giáo được phát huy có hệ thống thì ta sợ gì
người dân đi theo đạo khác.
Ngoài ra sự tiếp xúc với văn minh
Tây Phương là điều cần phải biết chứ không thể mũ ni che tai bịt mắt được; vì
thế đường dây để học hỏi văn minh Tây Phương là do các ông Cố Ðạo Tây Phương
dạy ta ngoại ngữ và dẫn dắt ta lúc ban đầu. Điển hình là ông Nguyễn Trường Tộ.
P Giáo dục: Cưỡng bách
giáo dục. Biến đình làng thành nơi học tập.Chương trình và Giảng huấn viên thì do nhà nước duyệt y và bổ
nhệm.
Cấp tiểu
học:
Biến đình làng thành lớp học, giáo viên cấp tiểu học dành cho
thiếu nhi thì do nhà nước chuẩn y, còn chi phí học hành và lương bổng giáo viên
thì xuất quỹ của làng để khuyến khích dân làng gia tăng sản xuất.
Cấp trung học:
Lương bổng giáo sư của cấp Trung Học trở lên dành cho Thiếu Niên (trên 10 tuổi)
, Tráng Niên (trên 16 tuổi) và Thanh
Niên (trên 18 tuổi) thì chánh quyền trả.
Cấp Ðại Học
Ai về kinh theo học ở Quốc Tử Giám để thi ra làm quan thì có nội
trú và thư viện để tra cứu.
Tóm lại
Nhà Tây Sơn
không những rất chú trọng đến khoa cử để đào tạo hiền tài giúp nước an dân mà
còn khắt khe với chương trình giáo dục đào tạo hiền-tài có đủ khả năng để vươn
lên cùng người thì mới không sợ Tàu ăn hiếp hay Tây Dương cướp phá.
Ø Do đó Thày
dạy phải có đủ kiến thức và đức hạnh để truyền đạt cho học sinh biết đường tân
trang tư tưởng theo thời đại mà vẫn bảo vệ được đức hạnh của dòng giống
Việt.
Nhờ chương
trình học vấn này nên nhà Lý và nhà Trần đã đào tạo được rất nhiều hiền tài còn
vang vọng cho đến ngày hôm nay.
Nay chúng ta nên noi gương sáng này
của tổ tiên để biết rằng tài năng dân Việt không thua kém bất cứ dân tộc nào
cả. Ngày hôm nay khủng hoảng hiền tài là vì sống trong môi trường nô
dịch nó đã kìm hãm nhân tài.
Ø
Không biết Văn Hóa và Lịch Sử của tổ tiên ra sao
thì làm sao mà không vọng ngoại được?
Ø
Mà vọng ngoại lại là nguyên nhân đưa ta đến
sự mất gốc, lúc đó ta không còn là ta nữa.
v
Nhà Nguyễn Gia Long (1802-1945)
Chúng ta phải
nói ngay rằng trong suốt thời gian này dân Việt không được quyền có tư duy độc
lập và tư tưởng cứu nước an dân; vì tất cả đã có nước Pháp lo chu toàn qua giao
ước Versaille ký ngày 28/11/1787 với "hoàng tử Cảnh", một tên con nít 08 tuổi. Gia Long chỉ là tên giám
quốc mà thôi. lo đầy đủ rồi.
Nhà vua nói: "Dân ngu nên không được chánh trị. Việc này đã
có nhà vua lo, dân đừng lo"
Họ kéo xuống
hố thì cả nước đi theo với quan niệm: Làm việc là bổn phận, còn cơm no áo ấm
hay tự do đi lại là đồ xa xỉ được nhà nước ban phát nếu tận tụy phục vụ triều đình....như
ngoại thương do Triều Ðình nắm trọn, cấm liên lạc với người da trắng (bạch quỷ)
nhưng lại bị nhồi sọ để sau này toàn dân làm nô lệ cho tập đoàn cai trị; vì dân
ta đã được nước Ðại Pháp che chở rồi, không được quyền thành lập binh đội,
không được quyền chống đối quan Tây...và còn nhiều cái không nữa như không được
quyền học tiếng Việt và chữ Hán hay chữ Nôm mà quan Tây đọc không được.
Nói chung thì
khoa mục thời này là huấn luyện tôi đòi ngoại chủng từ triều thần cho đến dân đen
(tức là Triều Nguyễn chủ trương đến nền giáo dục dân ngu khu đen, khu là bàn
tọa ngồi lê nên đít thâm).
Trong thực tế thì Gia Long chỉ làm giám quốc cho Tây mà thôi (§15
Giao ước Versailles điều thứ 3)
Tuy vậy,
chúng ta cũng vẫn phải thấu triệt chương trình học vấn rắc rối này. Muốn cho dễ
nhớ thì phải chia ra làm nhiều giai đoạn khác nhau cho từng miền của đất nước.
Miền Bắc:
Từ Ninh Bình trở lên đến ải Nam Quan thì áp dụng chương trình của
dân bị trị học hư văn dựa theo đạo Khổng đã bị nhà Thanh khóa trong Tứ Khố Toàn
Thư ở Bắc Kinh rồi, vì đối với Gia Long thì dân Bắc là ngoại chủng nên theo
luật riêng.
Luật nhà
Thanh là luật dành cho dân bị trị (nhà Thanh là ngoại chủng vào thống trị dân
Tàu. Ðó là nhà Mãn Thanh, gọi tắt là Thanh). Như vậy Gia Long coi dân Việt là
dân bị trị nên chương trình học nhằm mục đính đào tạo những kẻ cường hào ác bá để
cai trị dân từ xóm làng xa xôi, hẻo lánh. Nên
nhớ là Gia Long trị vì có 18 năm (1802-1819) mà phải dẹp đến 19 vụ nổi dạy,
phần lớn là do Tướng Lãnh cầm đầu
Tứ Khố Toàn Thư là 4 thư viện chứa
tất cả các sách quý xếp theo 4 loại. Ðây là chiếu chỉ của nhà Thanh với mục đích
"tiêu diệt văn hóa của dân Tàu" một cách im lặng.
Ðến thời Bảo Hộ (1883-1945) thì bỏ chương trình hư
văn mà dạy chương trình Pháp Văn.
Lý do: Tiếng Pháp là ngôn ngữ chánh, còn tiếng Việt là ngôn ngữ
phụ. Con nít học tiếng Việt đến năm 11 tuổi, sau đó là học toàn bằng tiếng
Pháp, mù chữ chiếm 95% dân số.
Nước ta không có Bộ Quốc Gia Giáo Dục mà chỉ có nha học
chính trực thuộc bộ Giáo Dục ở Paris ra chương trình tùy theo nhu cầu
thâu nạp người giúp việc. Môn học đắt khách là Thông Ngôn (gọi là ông Thông)
phần lớn là chuyên môn tới cấp cán sự thì hết (cán sự là technicien, tức trợ tá
chuyên môn).
Môn Việt Văn,
Văn Hóa Việt, Lịch Sử Việt hay Chánh Trị, Kinh Tế đều không được quyền học; vì
thế nên khi Nhật trao trả độc lập (10/3/1945) thì người dân chẳng biết mô-tê gì
về chánh trị cả, lãnh tụ thì tự học nên yếu kém. Do đó tên gian hùng Hồ Chí
Minh mới phỗng tay trên là nhờ y làm tôi trung cho đảng Cộng Sản Nga nên được
ông chủ gửi ban cố vấn sang để hết lòng tài trợ và chỉ đạo.
Miền Trung
(1802-1945):
Nhà Nguyễn
Gia Long coi miền Trung là chiến khu an toàn bảo vệ ngai vàng nô dịch
nên được nhiều quyền ưu đãi (§16: Luật Gia Long); do đó học thuật được chăm lo
nhiều với mục đích học để trung với vua nhưng ác với dân đặng còn đi thống trị
dân Bắc Kỳ và dân Nam Kỳ.
Chương trình
học này kéo dài tới năm 1884 thì hết, vì lúc đó miền Bắc do Pháp cai trị, miền Nam
là đất nhượng địa do Tự Đức hiến dâng nước Đại Pháp để cứu nguy triều Nguyễn.
Ðiển hình là đơn
xin làm vua của ông Ðồng Khánh (đồng nghĩa là cùng; khánh là vui), tức là khi ông thay Hàm Nghi bôn
tẩu (1885) thì 2 nước cùng vui. Pháp vui vì có đứa con ngoan, còn Việt vui vì được
nước mẹ (Pháp) che chở. Ðể tạ ơn thì Ngài Ðồng Khánh biếu ngay nước Pháp 3 tỉnh
lỵ: Nam Ðịnh, Hanoi và Haiphong)
Từ năm 1885-1945 thì mọi việc đề
do Khâm Sứ Pháp ở Huế đảm trách, triều đình chỉ có vua bù nhìn và triều thần
theo Tây nên học theo chương trình Tây huấn luyện với mục đích làm cho dân hèn
nước yếu....Giống chương trình giáo dục của Việt Cộng ngày hôm nay vậy; chỉ
khác một đàng là làm nô lệ cho Tây thì đây làm nô lệ cho Nga, và Nga sập thì
làm nô lệ cho Tàu.
Ø Ðó là lý do
tại sao dân ta đi mãi trong mê hồn trận Dịch Chủ Tái Nô.
Miền Nam
(1802-1864):
Ðây là miền đất của các chúa Nguyễn
khai khẩn đất bồi (tức đất phù nam: Ðất phù sa đang bồi ở phía nam, tức đồng
bằng sông Cửu Long) phần đông dân cư là người Tàu nhà Minh sang tỵ nạn nhà
Thanh nên không sõi tiếng Việt, do đó không có chương trình giáo dục rõ ràng.
Người Miền Nam ngày hôm nay phát âm
theo Tàu như chữ "con" thì
phát âm thành "coon"; chữ "ngon" thì phát âm thành "ngoon". Thêm vào đó, họ không
phân biệt được dấu 'ngã' (tomber=như
trái banh rơi xuống rồi nẩy lên nên giọng trầm bổng kéo dào ra) với dấu "hỏi" (interrogation=giật giọng, nói như hỏi); chỉ vì tiếng Việt có 6 âm
mà tiếng Tàu chỉ có 4 âm mà thôi nên họ phát âm ngã và hỏi giống nhau (dân nhà Minh là người Tàu gốc Ngô ở Phúc
Kiến, Chiết Giang). Thời xa xưa thì gọi là dân Giang Nam (phía nam sông Dương Tử) .
Cho đến năm 1864 thì Tự Ðức
nhường đứt 3 tỉnh miền Ðông (Biên Hòa, Gia Ðịnh và Ðịnh Tường) cho Pháp làm
nhượng địa. Ðến năm 1867 thì nhường nốt 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, Châu
Ðốc và Hà Tiên) cho Pháp.
Ø Thế là từ năm
1967 trở đi, đồng bằng sông Cửu Long là đất thuộc Pháp nên theo học
chương trình Pháp để làm người Pháp nên không bàn tới.
----------------------------------
Nền giáo dục
Quốc Cộng 1945-1975
Nền giáo dục nước ta từ 1945-1975 rất
phức tạp vì chiến cuộc triền miên do Hồ Chí Minh đem tới bằng những hiệp định
bán nước như sau:
Ø Tạm ước sơ
bộ 06/3/1946 mời quân Pháp vào nước để đổi lầy danh xưng vùng tự trị.
Ø Hiệp định
Fontainebleau 14/9/1946 công nhận Việt Nam là đất của nước Pháp.
Ø 19/12/1946: Gây chiến
với Pháp để nhân dân đừng hỏi tội bán nước của họ Hồ và đồng bọn Việt Minh.
Ø 20/7/1954: Theo lệnh
của Chu Ân Lai
(thủ tướng Trung Cộng)
ký vói Pháp hiệp định Genève chia đôi đất nước để dưỡng sức đánh tiếp.
Ø 1959 thành lập Mặt Trận Giải Phóng dân
Tộc để khủng bố dân miền Nam.
Ø 1968: Tấn công
khu dân cư ngay ngày Tết Mậu Thân để gây kinh hoàng, thảm sát đồng bào Huế
trong 21 ngày chiếm đóng.
Ø 1972: Tấn công
Quảng Trị với chiến dịch "Mùa Hè Ðỏ Lửa"
Ø 30/4/1975: Xua quân
qua vùng phi quân sự để tấn công ồ ạt miền Nam.
Bắt tù quân
cán chính và dân Miền Nam dưới mỹ từ: Trại Cảo Tạo và vùng Kinh Tế mới để giết
người trong im lặng, do đó dân tộc mới điêu linh như vầy.
Ø Từ ngày được
gọi là "Giải Phóng" (30/4/1975)
ra khỏi sự Tự Do No Ấm họ còn cố tình khơi căm thù bằng cách ăn mừng chiến thắng
như: Cải Cách Ruộng Ðất (2014); Chiến thắng Mậu Thân (hàng năm) ngay trong lòng
nạn nhân. Trong khi đó thì họ lại hô hào xóa bỏ hận thù.
A/- Phía
Việt Cộng (1945-1975):
Việt Cộng
theo chương trình nhồi sọ của Mạc Tư Khoa để biến con người thành công cụ sản
xuất cho lãnh tụ đảng Công Sản Ðệ Tam Quốc Tế ở Mạc Tư Khoa hưởng.
Năm 1989 bức
tường Bá Linh sụp kéo theo sự tan vỡ của khối Cộng Quốc tề, Mạc Tư Khoa tan rã
thì Việt Cộng lại khấu tấu Bắc Kinh xin làm nô lệ với 16 chữ vàng và 4 tốt nên
chương trình giáo dục là xây dựng Tư Duy nô lệ Mác, Lê, Mao với tư tưởng vọng
ngoại, lỗi thời lạc hậu như ta đã biết (coi sách giáo khoa Việt Cộng thì rõ).
-
16 chữ vàng :"Láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai.
-
4 tốt : "Láng giềng
tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Đối tác tốt".
²
B/- Phía
Quốc Gia:
Chia làm 2
giai đoạn:
B1/-Từ 1948 đến 1954:
Trước đó thì không có chủ quyền, Pháp
và Việt Cộng đang tranh bá đồ vương trên mảnh đất này, dân tình khổ sở không có
hướng đi; tương lai thì mù-mịt, vì không có chương trình Việt Học để đào tạo
hiền tài cho tương lai.
Ngày 05/6/1948, Quốc Trưởng
Bảo Ðại đòi Pháp trao trả độc lập qua hiệp định vịnh Hạ Long, ký trên chiến hạm
của Pháp ngày 05 juin 1948.
Ðến năm 1950 mới đủ sức để lo cho nền
giáo dục độc lập dạy bằng tiếng Việt, mở thêm trường Nguyễn Trãi còn
Trưng Vương là trường nữ sinh khi trước mang tên Ðồng Khánh dạy toàn tiếng Pháp.
Ngoài ra còn trường Chu Văn An
khi trước là trường Bưởi dạy toàn tiếng Pháp. Vị chi là có 3 trường công lập
dạy tiếng Việt đến hết Tú Tài phần 2 (tức lớp 12 ngày hôm nay)
Lúc đó thiếu giáo sư, nhất là môn Việt
văn phải đợi mãi đến năm 1953 mới có Ðại Học Văn Khoa do ông Nghiêm Toản làm khoa
trưởng để huấn luyện giáo sư Việt văn.
Vì thế nên
lúc đầu thì chương trình tiếng Việt dựa theo chương trình của Pháp trước đó rồi
tu bổ dần dần cho hoàn chỉnh. Nhưng không có môn Nhân Văn Việt Tộc, lịch sử chỉ
học qua loa, văn hóa không học. Còn văn học chỉ có vài bài; tài
liệu thì hầu như không có.
·
Trước đó, bài thi Tú Tài phần 2 phải gửi qua Pháp chấm vì ở Việt
Nam không có giáo sư đủ khả năng về khoa học để khảo bài.
Sau đó vào
vấn đáp thì phải mời sinh viên bên Pháp về thăm nhà và khảo thí luôn thể như
ông Phạm Mậu Quân, Phạm Mậu Hoàng….Thí sinh phần lớn là tự học Hàm Thụ.
·
Ðến ngày 15 juillet 1951, vì nhu cầu thay thế quân đội Pháp
để tự bảo vệ đất nước chống Việt Cộng nên Quốc Trưởng ký sắc lệnh Tổng Ðộng
viên; nhân tài đã thiếu lại còn đi lính nên nền giáo dục bỏ lửng không người
soạn thảo; vì thế nên không có gì đáng nói.
B2/- Từ 1954-1975:
Ngày 20/7/1954 hiệp định
Genève chia cắt đất nước ra đời với sự thỏa thuận của Hồ Chí Minh và Thực dân
Pháp. Quốc Gia Việt Nam với Lãnh Tụ là Quốc Trưởng Bảo Ðại không ký.
Ø Dân Bắc di
cư ồ ạt vào Nam 1 triệu người và xây dựng phòng tuyến chống Cộng một cách quyết
liệt.
Ngày 26/10/56 nền Cộng Hòa ra đời
với liên danh Tổng Thống và Phó Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và Nguyễn Ngọc Thơ. Ðây
là lúc Tổng Thống lo cho việc học hành đàng hoàng để đào tạo hiền tài cung ứng
cho nhu cầu như:
P Trường Võ Bị
Quốc Gia Ðà Lạt với chương trình học rất là chu đáo: Bốn năm văn võ căn bản + 2
năm binh chủng chuyên nghiệp; võ sinh được chăm sóc cẩn thận, trung bình mỗi 1
võ sinh có 3 người phục vụ. Cấm võ sinh lấy vợ trước khi ra trường.
P Trường Quốc
Gia Hành Chánh đào tạo những bộ óc lãnh đạo đất nước mà khi xưa gọi là "kẻ
sỹ".
P Còn trường Trung Học và Ðại Học thì mọc lên
như nấm để cung ứng cho tinh thần hiếu học của dân.
Lúc này mới tạm đủ khả năng để phát
triển nhân tài là nhờ ở lứa tuổi theo học vào năm 1950-1954 từ Bắc di vô Nam
tìm Tự Do. Nhưng đây chỉ là những môn học chuyên khoa cần cho nhu cầu sinh
sống, chứ chưa có chương trình Nhân Văn Việt Tộc đàng hoàng cho toàn dân.
Lý do: Không có người
có đủ kiến thức về môn Việt Học để soạn bài. Nếu có thì chỉ là dịch sách Pháp
như: Người Việt Nam da ngăm ngăm đen, thiếu thông minh, không có óc sánh tạo, lười
biếng và chỉ thích bắt chước ngoại chủng…
Về sau chương trình Việt Học đã được
nhà triết học Ngô Ðình Nhu soạn thảo và đem ra áp dụng dưới tên là: Học thuyết Nhân Vị kèm thêm chữ Cần Lao cho rõ nghĩa, và áp dụng
thành công trong thí điểm Ấp Chiến Lược.
Ø
Cần Lao Nhân
Vị là tự mình chuyên cần học hỏi để xây dựng vị thế của mình trong
xã hội.
Tức là con người phải có tinh thần Tự
Trọng và Cầu Tiến thì mới đủ khả năng để Tự Lực Tự Cường
không nhờ vào viện trợ của Mỹ nữa. Còn trông chờ ngoại bang tức trông chờ nô
lệ, ít nhất là tư tưởng vì có thực mới vực được Việt Ðạo.
Cứ thực mà nói thì: Tinh thần
Tự Trọng và Cầu Tiến đã có từ ngày lập nước Văn Lang (2.879BC); nhưng chương trình giáo huấn thay đổi
tùy theo bối cảnh lịch sử. Mặc dù nhà hiền triết Ngô Đình Nhu không biết, nhưng
ông đã hiệp thông với tổ tiên qua "thần
giao cách cảm".
·
Danh từ Văn Lang nói lên tinh thần Tự Trọng của con người
Hào Hoa, Phong Nhã; Phóng Khoáng, Hào Hiệp và Lịch Sự, Bặt Thiệp; đó là mục
tiêu phải đạt tới của con người Việt.
·
Danh từ Việt có nghĩa là hãy cố gắng vượt mọi khó khăn để
thăng tiến cùng người, tức tinh thần Cầu Tiến để thành người hữu dụng cho đời.
Hai danh từ
này đứng riêng một mình thì rất khó biết là tổ tiên chúng ta muốn nói gì đây?
Nhưng sau khi giải mã được toàn bộ huyền thoại Rồng Tiên Khai Quốc, 100 trứng,
100 con thì thấy ngay là các ý nghĩa phải ăn khớp với nhau thì mới nói được
thông điệp cứu nước của Việt Vương
Câu Tiễn (600BC): Xây dựng Việt Giáo, Việt Ðạo, Việt Triết
và Học thuyết thoát hiểm (§1: Bài học số 6 chủ đề: Rồng Tiên Khai Quốc)
w
Từ 1975-2014 thì chúng ta đã rõ
chương trình
Nhân Văn Việt Tộc mới bắt đầu từ năm 2013
Trong nước thì:
Toàn dân học
giáo điều Cộng Sản lấy dối trá làm đầu, sử thì học méo mó để phục vụ Ðảng Cộng
Sản, không đúng sự thật; rất nhiều đoạn bịa đặt, không dám nói các cuộc chiến
thắng oanh liệt chống giặc Tàu như :
a.
3 lần chiến thắng ở khúc sông Bạch Ðằng.
b.
Chiến thắng Chi Lăng chặt phăng đầu giặc.
c.
Chiến thắng Ðống Ða (mống 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu - 1789).
Quân Nam
chưa kéo tới mà giặc đã bỏ chạy từ sáng sớm tinh mơ, ngựa không kịp lên yên, ấn
tín và hồ sơ chưa kịp đốt. Quân giặc chạy về Tàu mà tim vẫn còn đập, dân chúng
bỏ chạy để lánh nạn quân Nam truy kích.
Sử chép là: Trong 3 dặm (4,8km) không
có người, chó không dám sủa, gà không dám gáy, vườn không nhà trống.
Hải ngoại thì:
·
Chúng ta chỉ trông vào sự giáo dục của gia đình. Các hội đoàn có
tổ chức những sinh hoạt văn hóa định kỳ nhưng lại chưa phân biệt được đâu là văn
hóa Việt gốc và đâu là văn hóa Tàu lai Việt, hay Việt lai Tây lai Mỹ.
Cha mẹ không biết môn Việt Học là
gì, thì dù có thực tâm muốn con thành người Việt tốt cũng không biết lấy tài
liệu ở đâu.
·
Sách đấu tranh thì nhiều nhưng sách Việt Học thì quá thiếu thốn
nên nhu cầu cố gắng soạn sách giáo khoa Việt Tộc là cần thiết trong lúc này.
Vì lý do này, nên Ban Giảng Huấn rất mong được các vị có kiến thức
cao về môn Việt Học, Triết Học hay Sử Học, có kinh nghiệm giáo dục cộng tác với
Ban Học Vụ để dạy con cháu của mình và con cháu của người thành người Việt tốt.
Tích tiểu thành đại, mỗi vị một tay thì sẽ làm thay đổi lịch sử là
vì thế hệ trẻ đã hấp thục được nềnViệt Học chính thống để biết Ta là ai? Sống để
làm gì?...Có bột mới gột nên hồ, chương trình và phương cách giáo dục khi trước
không còn hợp thời nữa.
Hiện nay
chúng ta có phương tiện Paltalk làm lớp học và Site Web làm thư viện nên bỏ qua
sau này sẽ tiếc vô vùng, vì không biết khai dụng văn minh điện tử nên tụt hậu
vẫn hoàn tụt hậu!
Ø Quý vị muốn đem
theo sự hiểu biết của mình xuống âm phủ hay sao mà còn giấu tài?
KẾT LUẬN
Nhìn toàn
cảnh học vấn để đào tạo hiền-tài
giúp nước an dân từ ngày lập quốc đến nay thì chúng ta thấy ngay nguyên nhân
suy thoái Tư Duy để có thảm trạng ngày hôm nay là đầu óc hẹp hòi của vua Lê Thái Tổ chỉ nghĩ đến Ngai
Vàng nên:
Ø Tin dùng
toàn những người có Võ Công mà hắt hủi
Văn Nhân (kẻ sỹ) thì làm sao quản trị được đất
nước?
Trong thực tế: Muốn bảo vệ an ninh lãnh thổ
thì cần đến Võ Công oanh liệt, nhưng muốn xây dựng đất nước thì phải cần đế Văn
Nhân ưu tú.
Nếu Văn Võ
toàn tài thì tốt, còn không thì phải phối hợp với nhau để: Văn Trị hòa nhịp với Võ Công thì đất nước và con người mới khấm khớ
được. Còn không thì chỉ là ngắng cẳng
nhau để cùng xuống hố cả nước!
Chú thích:
Văn Trị là dùng tài học để quản trị đất nước, còn võ công là dùng sự thành công của võ nghệ để bảo
vệ anh ninh bờ cõi.
Nay nếu thực
tâm muốn thoát hiểm, thiết nghĩ là phải có 3 yếu tố trong tầm tay sau đây:
1)
Chương trình giáo dục nhân văn Việt Tộc phải do chính người Việt
soạn.
2)
Xây dựng ban giảng sư có đủ khả năng sư phạm và kiến thức để đáp
ứng cho 90 triệu dân phải do chính dân Việt đào tạo.
3)
Cải thiện môi trường lừa dối bịp bợm và chụp dựt để xây dựng cuộc
sống lương thiện của người dân.
P Ðó là những bước sau cùng phải đi,
theo sự chỉ dẫn nói trên của cha Lạc Long.
Nếu chúng ta
khởi hành trễ thì sự Canh Tân Ðất Nước cho bằng người cũng trễ theo, và có thể
chẳng bao giờ dân tộc Việt tiến bằng người được. Mặc dù chúng ta có rất nhiều
nhân tài không thua kém bất cứ một dân tộc nào; chỉ vì chúng ta coi thường sự
chỉ giáo của cha Lạc Long. Đúng là "Bụt
nhà không thiêng", mất nước là đúng….Trông chờ ngoại bang tức trông
chờ nô lệ!
Mong lắm thay
III/- Phần
Trau Dồi Kiến Thức
Thủ đoạn ác độc của Minh Thành Tổ:
Tiêu diệt tận gốc Văn Hóa Việt (1406-1407)
Nguyễn Huệ
Chi
15/09/2013
Nguyên
đây là một phần trong thiên khảo luận dài có tên “Cuộc kháng chiến trường kỳ
chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng những bước nối tiếp về
sau” viết năm 1980, in
trong công trình Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa
đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi (NXB Giáo dục, 2013)
đã được phê bình, giới thiệu trên nhiều trang mạng và báo chí trong nước thời
gian gần đây. Diễn Đàn trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Huệ Chi đã
cho phép trích đăng bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn sâu vào một khía cạnh đặc
biệt thâm hiểm của Hoàng đế Minh Thành Tổ – kẻ thiết kế toàn bộ kế hoạch đánh
chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người Việt bằng một chủ trương
rất bài bản và “cao tay”... là lệnh cho quân lính xóa sạch tại chỗ văn hóa tinh
thần và vật chất của dân tộc Việt tại những nơi chúng tràn đến như nước lũ. Hầu
hết cứ liệu để cập trong bài được rút
từ một cuốn
sử Trung Quốc –
cuốn Việt kiệu thư 越 嶠 書 của
sử thần Lý Văn Phượng 李 文 鳳, soạn năm 1540.
§
Bauxite Việt Nam
--------------------------
Vào
năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam diễn ra một
bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành lập một triều đại
mới – triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử chế độ phong kiến Trung Hoa cũng đã từng diễn ra
một bước ngoặt: nền thống trị của đế quốc Nguyên – Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên Chương nhảy
lên ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới – triều đại đế quốc Minh.
Trước
sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã lần lượt thế chân
các ông chủ cũ. Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi một chút nào mối
quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những gì trong quá khứ
vốn đã quá nặng nề.
Những
vị Hoàng đế nhà Minh – mới nắm được “ngôi trời” – cảm thấy mình còn dư sức, con
mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh đất giàu có phương Nam với lòng tự tin rằng,
mình có thể làm được cái việc “chinh phục” Đại Việt mà những đế chế trước mình
đã phải bó tay.
Về
phía các vua nhà Hồ, cố nhiên họ hiểu rất rõ dã tâm đó của “thiên triều”. Ngay
khi vừa lên ngôi, họ đã tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế
rồi, vào ngày 19 tháng 11 năm 1406, chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng.
Nhà Hồ thất sách về chính trị và sai lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy
một năm sau đành lâm vào thất bại. Vua Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại
Việt thành quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô hộ lên khắp nước ta.
Nhưng
nhân dân Đại Việt vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh giác với kẻ thù
phương Bắc, đâu dễ dàng cam chịu ngồi yên. Và khi mà Minh Thành Tổ tưởng mọi
việc đã xong, ra lệnh cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng chính là lúc một
phong trào kháng chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy. Rồi từ đó, hết
phong trào này đến phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập của xã tắc đã kéo
dài hơn 20 năm cho kỳ đến thắng lợi.
*
Điều
cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với tất cả vẻ khốc liệt
và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức gay gắt của nó quyết
định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong kiến Tống, Nguyên
chẳng cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt, và về so sánh lực
lượng, lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng như áp đảo kinh
hồn? Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm thực hiện một
mưu đồ còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông thường, của một tên
“Đại Hán” mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại của y có thể đứng
vào loại nhất nhì thế giới.
Ở
tên Đại Hán đó có sự tích lũy tất cả những kinh nghiệm tàn ác của cha ông y
trong quá khứ, kết hợp với những mánh khóe ranh ma mới mẻ nhất mà thời đại mới
mang lại cho y. Chính vì vậy, nguy cơ của cuộc xâm lăng lần này đã đặt người
dân Đại Việt trước một yêu cầu thức tỉnh toàn diện để có thể đứng vững, hơn thế
nữa, để lớn vượt lên. Cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền và xây dựng đất nước
của các thế hệ cha ông ta trong vòng hơn 20 năm (1406 - 1427) rõ ràng là một
cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả đã tạo ra một bước đổi thay lịch sử phi
thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV chính là nắm cho được hai
điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi thay lịch sử phi thường đó: Kẻ thù
là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia chưa từng thấy, nhưng về mặt mưu đồ và
bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện thân của những tên xâm lược cũ;
và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu nặng nhưng lại là một dân tộc
đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu hiện một sức mạnh hồi sinh.
Ngón
đòn cổ điển nhất của các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là những âm mưu gây hấn
đối với Việt Nam. Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không kém cạnh chút nào
so với các triều đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như tình hình của rất
nhiều cuộc “Nam chinh” trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra đã được “thiên
triều” chuẩn bị chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình thức, phải tìm
ra một cái cớ thích hợp để mà “sinh sự”, và về thực chất, phải làm sao dò thật
trúng thực lực của Đại Việt để lượng sức mình.
Hai
mặt này thường vẫn gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình chuẩn
bị âm thầm của họ. Năm 1377, chỉ mới chín năm sau ngày giành được địa vị “con
trời”, ông vua Minh
đầu tiên đã nóng nảy muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận trong cuộc
thân chinh phương Nam (1377) mà cất quân sang hỏi... “tội” (!).
Nhung
“hỏi tội” một vị vua vì “chống nạn cứu dân” mà không may bị chết? Trước lời lẽ
cứng rắn của Trần Đình Thâm, sứ giả nước ta, vua Minh đuối lý, không những phải
cử người sang dự lễ viếng, mà còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế những toan
đem thi thố phen này(1). Dĩ nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ
hẳn, mà chỉ là buộc lòng nén lại những dự định bên trong ngày một sục sôi.
Tháng
9 năm 1384, nhân cho quân lính tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo công văn
đòi nước ta cấp lương cho đạo quân “tiễu phạt” của y. Ta nhân nhượng. Rồi các
năm 1385, 1386, vua Minh vẫn đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà. Nào bắt nộp
hoạn quan, nào muốn tìm giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để “thiên triều”
mang đi đánh trận.
Năm
1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm Hanh Thái sang xin ta giúp 5 vạn quân,
50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng ý chộp bắt sứ giả của ta để kiếm
chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho ta biết trước, vì thế ta đã kịp
thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên biên giới rồi rút về ngay chứ không
cấp lính và voi.
Một
vài ví dụ như trên cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến phương Bắc mới phất
lên này nóng lòng dòm ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác, một thực tế cũng dễ
thấy là mặc dù rất tham lam, các ngài ngự “Đại Minh” vẫn phải kéo dài việc
chuẩn bị xâm lược suốt 30 năm, từ đời vua cha đến đời vua cháu(2).
Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ đời đó? Chắc hẳn trong khi rút kinh nghiệm
quá khứ, bài học thảm bại chưa xa xôi gì của những kẻ “đi trước” đã không khỏi
làm cho các ngài đâm ra e ngại, trùng trình: “Nước An Nam tuy ở góc biển nhưng
xưa kia đã là quận huyện của Trung
Quốc.
Từ
đời Ngũ quý về sau sức ta không còn chế ngự nổi họ. Qua Tống đến Nguyên, tuy
muốn mưu đồ nhưng không thành, chỉ để tiếng chê cười cho hậu thế”(3).
Đấy là lời thú nhận của Minh Thành Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng binh Chu Năng – viên tướng đầu tiên
cầm quân sang đánh Đại Việt theo lệnh của y – đề ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406).
Cũng
ở sắc chỉ đó còn nêu một lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên nhân thất bại
của Tống và Nguyên:
“Tống cũng
như Nguyên đều cho quân sang đánh An Nam, nhưng tướng thì kiêu,
binh thì
lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế mà không thành”(4).
Sự
thật thì tuy làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên mình, ông Hoàng đế khét tiếng về tham
vọng và tàn bạo này cũng chẳng can đảm hơn bao nhiêu trên vấn đề xâm lược Việt
Nam.
Năm
1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, tình hình mâu thuẫn và
bế tắc trong tập đoàn phong kiến Trần – Hồ không những không giải quyết được mà
còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn đã có thể kiếm ra rất dễ, điều kiện gây hấn
cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng là năm Minh Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn
đoạt được ngôi từ trong tay cháu ruột của mình; ấy thế mà đối với nước ta, ông
ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho bọn hoạn quan người Việt trở về làm do thám
một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng, ước hẹn ngoài đánh vào thì trong cắm cờ vàng
làm hiệu.
Thế
rồi, phải ba năm sau nữa, khi mọi yêu cầu tìm hiểu đã được đáp ứng đầy đủ, cảm
thấy không còn một trở ngại nào đáng kể trên con đường tiến xuống kinh đô Đại
Việt, Minh Thành Tổ bấy giờ mới thật quyết tâm khởi thế công.
Một mặt, ông ta vờ
làm to chuyện lên rằng đến lúc này không ai còn chịu đựng nổi những việc Hồ Quý
Ly truất ngôi các vị vua Trần và giết hại đám con cháu nhà Trần (vốn là việc đã
xảy ra sáu, bảy năm về trước!): “Bề tôi
[cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi lòng lang sói,
rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát người trong
dòng họ Trần, cả những bề tôi của họ Trần cũng trong vòng thảm khốc, bị hãm vào
chỗ chết. Bọn chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không yên sống,
tiếng hờn oán dấy lên đầy đường”(5).
Mặt khác, với ngón
bịp sở trường từ tổ tiên mình truyền lại, ông ta lại cũng ra điều ta đây bất
nhẫn, không định gây việc can qua làm gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá lắm nên phải
động binh; song động binh mà vẫn rất nhân từ, muốn thu xếp ổn thoả bằng cách
cho cha con họ Hồ “đem trăm vạn lạng
vàng và một trăm con voi ra chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép đem châu ngọc
bảo bối thế vào cho đủ. Có thế đại quân mới không tiến sang”(6).
Kỳ
thực, có đúng thế hay không? Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng
viên Tổng binh Chu Năng
– gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai trên đây – Minh Thành Tổ đã
thổ lộ “can tràng” của ông ta: “Nay sai Chu Khuyến, Trương Anh đem công văn của
Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để cho chí chiến đấu của chúng
buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu Khuyến ra đi, trẫm từng gặp
mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày, nếu 5 ngày chưa xong thì
cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai người mang tiếp sang nộp
cho đủ.
Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại quân
phải tức khắc xuất phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và vàng thì
cứ bắt giữ lại để tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi đã bị
bắt...
Nay bọn Chu Khuyến vào nước đó, mọi
việc ngươi nhất thiết chớ hở ra cho ai biết”(7).
Gớm
ghê thay miệng lưỡi từ bi và lòng dạ thực của đấng “thiên tử”! Duy có điều là
ngay cả vào lúc đó rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc chỉ căn dặn: nào
là “nước An Nam giàu mạnh đã lâu”(8), nào là “quân lính của họ tất
có phòng bị trước”, nào là “cha con họ Lê – tức họ Hồ – lắm mưu mẹo giảo
quyệt”, tuyệt nhiên không thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh
Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc
nhất, sẽ thua mưu kế của Hồ Quý Ly. Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: “Cứ đóng quân mãi trên sông giằng co với
giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý Ly] nhằm giữ chân quân ta thật
lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được mưu này thì phải thần tốc không
được trì hoãn”(9).
Rõ
ràng, vừa khát thèm lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo ngại, vừa ráo riết
sửa soạn lại vừa trù trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc chiến tranh xâm lược
của giặc Minh ở thế kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới mẻ gì đối với nhân
dân Việt Nam. Bước ra quân ban đầu của “thiên triều” phải mang tính chất hai
mặt: nhanh mà chậm, nóng mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ, cũng chính là
vì vậy.
*
Tuy
nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta,
thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và
hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để
tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng Long đánh tỏa xuống phía Nam, được thi
hành. Một chế độ thống trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi
miền, thành thị cũng như nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến.
Và một chính sách chém giết thẳng
tay cũng được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng.
“Trương Phụ đi đến đâu là giết
hại, hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán
thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ
bụng người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để tính làm hai mạng
người”(10).
§
Có thể nói, nói đến đặc điểm
thứ hai trong chân dung của tên xâm lược mới ở thế kỷ XV là nói đến hình ảnh
các viên quan cai trị nhà binh với tất cả những thủ đoạn giết người – trị người
– dùng người gắn bó với nhau một cách tinh vi và nham hiểm. Sau nhiều lần cố
gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển Canh, Kỳ La,... nhưng đều thất bại,
vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và bị bắt ở núi Thiên Cầm. Cả nước rơi
vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh, một công trường lao dịch khổ sai,
một nơi để giặc Minh thoả sức tìm tòi thức ngon của quý. Ngay trong những ngày
đang trên đường tiến sang nước ta, bọn tướng tá viễn chinh đã nhận được sắc chỉ
của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là phải tịch thu hết giấy tờ, sổ sách kê khai
nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải lập ngay chế độ thuế khóa trên những vùng
vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác các mỏ bạc, mỏ vàng. Kể cả những mỏ nằm trên
biên giới Việt – Chiêm, chưa rõ thuộc phần đất bên nào, cũng được lệnh cứ cướp
lấy chứ không cần tra xét hư thực(11). Hai cơ quan Kim trường cục và
Châu trường cục được thành lập, nhằm xua dân miền biển và miền núi vào mọi công
việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc. Chưa hết. Còn chế độ lao dịch ở đồng quê, ở
thành thị... Đâu đâu cũng cái cảnh “bị người Minh sai khiến mà mất cả gia
thuộc”(12), “bị bắt hết làm nô tỳ và chuyển bán đi mà tan tác bốn
phương” (13).
Đẩy nhân dân Đại Việt đến chân
tường, giặc Minh phải đâu đã thoả. Chúng còn tìm cách thâu tóm vào tay mình
hoặc nếu không thì triệt cho hết trong đám người còn sống sót những ai thật sự
có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các châu quận nước ta có thầy hay, thợ giỏi,
bọn quan cai trị đều cho lập danh sách đem “tiến” về Yên Kinh. Các loại người
bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ thủ công, ca nữ tuyệt sắc, thầy bói và
thầy địa lý;...
Mỗi
năm Minh hoàng lại gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người dân Việt lại
lìa bỏ gia đình xứ sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về.
Nhưng
cho dù có tìm mọi mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ sung cho những cuộc
tàn sát hàng loạt thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị vẹn toàn. Giặc Minh
biết vậy nên cũng lại ra sức thi hành một chính sách “mặt trái” rất khôn khéo:
chính sách mỵ dân. Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản dặn đám tướng tá: hễ
người dân Việt nào chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã đầu hàng thì phải
tha ra, không giết bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài nhân từ có
một. Có ngờ đâu, tha, theo ý ngài, là bắt đem “cung hình” (thiến) nhất là đối
với lớp người Việt trẻ(15), sau đó cung cấp cho cái chế độ quan liêu
đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ!
Đặc
biệt, trong chính sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng vượt hơn những kẻ
xâm lược xưa kia một bước rất dài. Trừ những chức quan cao cấp ra, chúng đặt
người Việt vào mọi địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống. Và một chính sách
lục dụng đám trí thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố trong rất nhiều đạo
sắc từ 1406 đến mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã nổi dậy, có thể nói
là nhiều nhất trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề Việt Nam. Đây quả là
một đường lối mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng. Có trường hợp những
người có tên tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như Nguyễn Cảnh Chân, Đặng
Tất, Phạm Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,... chính vua Minh trực tiếp
chỉ thị phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp khác như Bùi Bá
Kỳ, bọn quan lại dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy sang Minh cầu
cứu đến chỗ mất hết lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống chỉ rút kinh
nghiệm về việc “dùng người” và than thở không thôi(17). Sự chu đáo
trong chính sách “chiêu hồi” này còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả
đều được lập thành danh sách, mời về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại
cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng đế “bồi dưỡng về lập trường quan điểm”, rồi
sau đấy lại được trả trở về Giao Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18).
Nhưng thủ đoạn mỵ dân mà nhà
Minh lưu tâm hàng đầu – và từ đây cũng sẽ đẻ ra nhiều nhiệm vụ phức tạp cho
cuộc đấu tranh chính trị chống xâm lược – chính là một phương sách hai mặt: vừa
triệt để thống nhất về bản chất với những tên xâm lược trong quá khứ, lại vừa
làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có một bước ly khai. Ngay trong đạo sắc 10 điều
của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406) gửi viên
tướng viễn chinh Chu Năng
trên đường y cất quân sang Đại Việt, đã dẫn một phần ở trên, có một điều thứ tư
rất đáng chú ý: “Hỏi xem cột đồng trụ hiện dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném
ra ngoài đường, để cho nguời trong nước đều trông thấy”(19). Chắc ai
cũng phải lấy làm lạ: một bằng chứng “chinh phục” tiếng tăm của Mã Phục Ba thời
Hán, cũng là một dấu vết của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá
chồng lên cho mất tích, ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi? Ông ta hớ hênh dại
dột, hay ngông cuồng, hay thật bụng nhân đức? Đâu có phải vậy! Thực tình Minh
Thành Tổ coi đây là một việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm
sau đó, ông ta còn nhắc lại điều này(20). Dám hy sinh đến cả “sự
nghiệp” vênh vang của “tiền nhân”, phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV
muốn nhờ đấy đánh đổi lấy một bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào
cái bản chất “một đồng một cốt” giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung
hoành? Có lẽ! Nhưng chắc chắn còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương
máu đã cho tên trùm Đại Hán thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay.
Một cột đồng trụ những tưởng nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái
mốc “chiến bại”, thì rốt cuộc cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả
những thứ cột mốc hình thức kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng – mà ngay nhiều
tên xâm lược cũng phải đành lòng thừa nhận – cứ tự nó phát huy tác dụng: “...
dù có cướp được nước họ thì rồi cũng không thể giữ được”(21). Có
nghĩa là chỗ khó khăn nhất, mà quả là khó, là làm sao biến được dân tộc Việt
thành người Trung Quốc,
để vĩnh viễn họ không còn tìm cách nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận
huyện của “thiên triều”? Thủ đoạn đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính
là một cách lý giải mới đối với bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những
ràng buộc vô hiệu bề ngoài mà tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là
những trói buộc nghiệt ngã trên lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất
chuyên chế, độc đoán về sinh hoạt tinh thần.
Lần đầu tiên, trong lịch sử
xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể phong kiến Trung Quốc, tên xâm lược nhà
Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ tư tưởng đối với xã hội Việt Nam. Trong
bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407, sau khi chiếm xong nước ta, Minh Thành
Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn mạnh rằng, một trong những tội trạng
của Hồ Quý Ly khiến “ngài” không thể không “chinh thảo”, là họ Hồ đã tự coi
“đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương,
Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu
Công Khổng Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho
ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di], Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là
phường trộm cướp”(22), v.v. Cơn giận của “ngài” kể cũng dễ hiểu, bởi
một nước tự xưng là “thần tử” của Hoa hạ làm sao có thể dám coi thường cái đạo
mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc
tôn thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì
mới dễ dàng phát huy ảnh hưởng của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ
Khổng là “làm cho xa thư về một mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ”
thì há miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu.
Dù sao, vấn đề không chỉ giản
đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy đạo Nho để thống trị nhân dân Đại Việt,
nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn. Cuồng vọng bá chủ sôi sục khiến y cảm thấy
như thế vẫn chưa thoả lòng. Tốt nhất là làm sao cho nước “man di” kia không còn
có gì gọi là long mạch tư tưởng, tinh thần. Y muốn xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ
bé phương Nam đầy sức tự cường mà trong lòng nhiều thế hệ những tên giặc Bắc
vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý thức về quá khứ lịch sử của chính
họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một dân tộc chính là cách cắt đứt nguồn tiếp
sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ vào chỗ mù mịt tối tăm, phá tan đi cái
nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh thành. Muốn vậy phải làm thế nào? Không có
cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá không thương tiếc tất cả những gì là sản phẩm
trí tuệ của dân tộc này, nó là biểu trưng cho văn minh, văn hóa. Trong sắc chỉ
10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng đã nói ở trên, bên cạnh những điều căn dặn
tỉ mỉ về cách chế ngự “hoả khí” lợi hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ
sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất, hoặc đập phá cột đồng trụ,... còn một điều
đặc biệt hơn mọi điều kia: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách
kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi
sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ,
như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều
phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay
thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một
mảnh một chữ chớ để còn”(23).
Thử lần tìm cái động cơ chính
ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua Minh nói: tất cả những gì thuộc nền văn hóa
chính quốc Trung Hoa,
kể cả sách kinh của Phật và Lão, đều được giữ lại đầy đủ. Trái lại, bao nhiêu
trước tác thuần túy Việt Nam thì đều phải phá hủy. Vậy ra, sự lựa chọn của y
chẳng phải là đạo Nho hay một hệ tư tưởng chính thống nào cả. Đối với người
Giao Chỉ cũng như các dân tộc bị y xâm lược, y chỉ cần một sự lựa chọn đơn
giản, mà lại thực dụng hơn nhiều: hãy bắt họ từ bỏ tất cả những gì sinh ra
trong đầu óc của chính dân tộc họ kể cả trong quá trình tiếp nhận những gì là
vốn liếng tinh thần của “nước mẹ Đại Minh”. Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn bắt
các dân tộc thôi đừng có tự mình tư tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có nghĩa
là... không tồn tại.
Thế rồi, từ trong thâm cung
tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày đêm lo theo dõi, đôn đốc việc thi hành
lệnh chỉ đã ban ra. Đến nỗi khi thấy có một bộ phận quân lính không chịu làm
theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay sách vở cướp được của nước ta mà còn
giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai nhắc lại đúng những điều đã chỉ thị
từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt ngay tại chỗ chứ không nên giữ lại:
“Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An Nam có tất thảy những sách vở văn
tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách dạy trẻ, như loại “Thượng đại
nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết, và tất thảy các bia mà
xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ trông thấy là phá hủy lập tức, chớ để
sót lại. Nay nghe nói những sách vở do quân lính bắt được, không ra lệnh đốt
ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân lính phần đông không biết chữ, nếu đâu
đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ mất mát nhiều. Từ nay các ngươi phải
làm đúng như lời sắc trước, truyền cho quân lính hễ thấy sách vở văn tự ở bất
kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được lưu lại”(24).
Dĩ
nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng cảm thấy một chủ
trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến làm nổ bùng lòng
căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây chuyền của sự
bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế, đi kèm với những
điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín chủ trương của
mình. Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá hoại về căn bản
đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407), y lại gửi một
sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải cấp tốc thu hồi
những đạo dụ y đã ban ra từ trước: “Nay An Nam đã bình định xong; [...] trừ
các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp,
đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc công đã lĩnh, hoặc
các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu,
niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ
lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện”(26).
Tưởng cũng khó có thể chê
trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ trong việc xếp đặt đâu ra đấy từng
bước “tiến”, “thoái”, “thắt”, “cởi” cho mọi hành động tàn phá kinh khủng nhất
của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y thâm thúy đến mức đẩy đối tượng bị
tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư vô, không còn quá khứ cũng không
còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần “tự diệt”, thì nghệ thuật xóa dấu vết của y
cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có thể hùng hổ la làng rằng bị cướp
đe dọa. Âu đây chính là những dáng nét hiện đại nhất của tên xâm lược Đại Hán ở
thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản chất xâm lược dã man của nhiều thế hệ
cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được nhân lên, biến hóa sinh động hơn
những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm kia còn rất quen thuộc mà nay đã
bị xem là quá cổ lỗ và thật thà.
N.H.C.
---------------
Chú thích:
Những chú thích dưới đây, so với bản in lần đầu của bài này (ngày
14.9.2013), đã được chỉnh sửa theo chỉ dẫn của tác giả, thống nhất theo bản
Việt kiệu thư của viện Viễn Đông bác cổ thời Pháp, nay là Thư viện Viện Khoa
học xã hội (xem chú thích số 1., bài Sách Việt kiệu thư trong con
mắt giới sử học đương đại). Diễn Đàn.
(1) Xem Đại
Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao
Huy Giu dịch, NXB Khoa học xã hội,
in lần thứ hai, H.,
1971; tr. 189.
(2) Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối ngôi thì chú y, tức Chu Đệ 朱棣 liền cướp lấy
mà lập
ra triều đại
thứ ba của nhà Minh (1402 - 1424), tức Minh Thành Tổ.
(3) Lý Văn Phượng 李 文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540). Đây là một tài liệu quý, ghi
chép
khá đủ theo trật tự thời gian những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ
gửi đều đặn (thường là vài ngày một đạo) đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm
lăng Đại Việt 1406-1407. Trước đây chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất cuốn
sách này của Thư viện Viện Khoa học xã hội vốn là sách của Viện Viễn Đông bác
cổ Pháp cũ, ký hiệu: 1731, (nay thay đổi ký hiệu là: VH. 000276 - HV. 000281),
nhưng năm 2001, sang làm việc ở Thư viện Yenching Harvard, tìm thêm được văn
bản do Tề Lỗ thư xã xuất bản, Nam Kinh, 1996. Tuy vậy, trong bài này, vẫn xin
ghi chú số quyển và trang và theo bản của Thư viện Viện Khoa học xã hội để cho
thống nhất. VH. 000276, Q. 2, tờ 19a:
今 安 南 雖 在 海 陬 。自 昔 為 中 國 郡 縣 。五 季 以 來 力 不 能制 。歷 宋 及 元 雖 欲 圖 之 而 功 無 所 成 。貽 笑 後 世 (Kim An Nam tuy tại hải tưu, tự tích vi Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý
dĩ lai lực bất năng chế. Lịch Tống cập Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở
thành, di tiếu hậu thế).
(4) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 20a (Điều
ghi chú thứ 9 trong 18 điều khoản kèm theo tờ sắc này): 宋 元 皆 發 兵 征 討 安 南。將 驕 兵 懦。貪 財 好 色。以 此 不 能 成 (Tống Nguyên giai phát binh chinh thảo An Nam, tướng kiêu
binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ thử bất năng thành).
(5) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An
Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q.
2; tờ 27b. Nguyên văn:
其 臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎 狼 之 心 。竟為 吞 噬 之 。舉 弒 其 國 王。 戕 其 本 宗。覃 被 陪 臣 重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺 戮 。毒 病 生 民 。雞 犬弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ
thần [Lê ] Quý Ly, Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ
chi, cử thí kỳ quốc vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm
khốc, bồi khắc sát lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái
lộ).
(6)
Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4
(1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 18a. Nguyên văn:
今 廣 西 奏 。安 南 遣 人 來 貢 謝 罪 。原 胡 奄 。 父 子 罪 本 難 容 。 今 既 改過 自 新 。只 著 他 辨 黃 金 五 萬 。象 一 百 隻 。 以 贖 其 罪 。 金 象 不 足 。許 以 珠 玉 寶 貝 代 之。以 足 其 數 即 止 。大 軍 不 進 (Kim
Quảng Tây tấu: An Nam khiển nhân lai cống tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản
nan dung. Kim ký cải quá tự tân, chỉ trước tha biện hoàng kim ngũ vạn, tượng
nhất bách chích, dĩ thục kỳ tội. Kim tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo bối
đại chi, dĩ túc kỳ số tức chỉ, đại quân bất tiến).
(7) Điều thứ 10 trong 10 điều căn dặn trong đạo
sắc chỉ bí mật, xếp sát ngay sau đạo sắt đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17b: 今 遣朱 勸 張 瑛 齎 禮 部 咨 文 往 安 南 索 其 金 象。此 計蓋 欲 弛 其 鬥志。非 真 實 意 也 。 朱 勸 等 臨行 朕 曾 面 諭 之 。今 到彼 只 住 五 日 。若 五 日 內 措 辨不 足 。 許 隨 多 少 先 將 來 。 後 卻 差 人納 足 。爾 待 朱 勸 等 人 去 。大 軍隨 後亦 進 。 若 遇 差 出 納 金 象 之 人 就 執 之 。訖 問 聲 息 。須 勿 令彼 知 差 來 被 執 。今 朱 勸 等 到 處 。爾 事 機 切 不 可 令 人 知 之 (Kim
khiển Chu Khuyến,
Trương Anh tu
Lễ bộ tu văn vãng An Nam sách kỳ kim tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi
chân thực ý dã. Chu Khuyến
đẳng lâm hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ trú ngũ nhật. Nhược ngũ
nhật nội thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương lai, hậu khước sai nhân
nạp túc. Nhĩ đãi Chu Khuyến
đẳng nhân khứ, đại quân tùy hậu diệc tiến. Nhuợc ngộ sai xuất nạp kim tượng chi
nhân tựu chấp chi, cật vấn thanh tức. Tu vật linh bỉ tri sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ sự
cơ thiết bất khả linh nhân tri chi).
(8) Sắc chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4
(1406). Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd tờ 20a: 安南 自 我 朝 以 來 [。。 。] 數 十 年 不 曾 用 兵 。其 國 中 富 庶 (An
Nam tự ngã triều dĩ lai, [...] sổ thập niên bất tằng dụng binh, kỳ quốc trung
phú thứ).
(9) Sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ
4 (1407), Việt kiệu thư, Sđd; Q.2, tờ 24a. Nguyên văn: 頓 兵 江 上 與 賊 相 持 。黎 賊 之 計 正 欲 持 久 以 待 瘴 癘 之 發 。破 之 貴 在 神 速。不 宜 遲 緩 (Đốn
binh giang thượng dữ tặc tương trì, Lê tặc chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi
chướng lệ phát. Phá chi quý tại thần tốc, bất nghi trì hoãn).
(10) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd;
tr. 262.
(11) Việt
kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 22a đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4
(1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安 南 金 場 。銀 場 遙 聞 原 是 占 城 之 地 而界 相 爭 已 久 。亦 未 可 信 。平 定 之 後 。只 以 見 得 地 界 為 準 。縱 然 占 城 有 請 亦 不 可 擬 還(An Nam
kim trường, ngân trường dao văn nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương
tranh dĩ cửu, diệc vị khả tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi
chuẩn. Túng nhiên Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là:
Từ xa trẫm nghe nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai
bên tranh chấp đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa
giới mà mình trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả.
(12), (13) Đại
Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao
Huy Giu dịch, 1971, Sđd; tr. 250, 262.
(14) Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 23b. Nguyên văn:
大 軍 入 安 南 。但 有 助 黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之 。 若 有 能 棄 甲卻 戈 降 者。一 人 不 可 妄 殺 (Đại quân nhập An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai cự địch
giả, sát chi. Nhược hữu năng khí giáp khước qua hàng giả, nhất nhân bất khả
võng sát).
(15) Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ
4 (1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 22b. Nguyên văn: 其 有 年 少 而 罪 當 死 者 。宜 處 以 宮 刑 。亦 可 以 保 全 其 命 。他 日 又 得 以克 使 令 (Kỳ
hữu niên thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn
kỳ mệnh, tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh).
(16)
Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm
Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 37b.
(17) Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5
(1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 29b. Nguyên văn:
敕 傳 奏 言 裴 伯 耆 事 為 將 之 。道 在 於 用 人 。一 裴 伯 耆 不 能 用 何 以 能成 事 功 俠 。朕 有 南 鄙 又 憂 。古 人 用 人 之 法 具 右 方 冊 。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc truyền tấu ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi. Đạo tại ư
dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ bất năng dụng, hà dĩ năng thành sự công hiệp? Trẫm
hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân dụng nhân chi pháp cụ hữu phương sách, nhĩ nghi thẩm
quan cố sắc).
(18) Sắc chỉ
đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407),
Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ
25b - 26a. Nguyênvăn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者 。即 陸 續 遣 之 來 朝 。聽 朕 面 諭 。給 與 印信 俾 還 管 事 。如 或 事 世 未 可 又 在 。隨 宜 處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam quan lại lai quy hàng giả, tức lục tục khiển
chi lai triều, thính trẫm diện dụ, cấp dữ ấn tín, tỷ hoàn quản sự. Nhu hoặc sự
thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử trí, bất khả chấp nhất).
(19) Điều thứ tư trong Sắc chỉ bí mật, đề ngày 4
tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4
(21.8.1406), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 17a. Nguyên văn:
訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦 便 碎 之。委 之 於 道 以 示 國 人 (Phỏng
vấn cổ thời đồng trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân).
(20) Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 9 tháng
Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407),Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 25b.
(21) Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm
1427. Một viên quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua
Minh những lời tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu dịch, NXB Khoa
học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47.
(22) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An
Nam”, đề ngày 1 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5
(1407), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên văn: 自 以 為 道 優 於 三 王 。 德 高 於 五 帝。以 禹 湯 文 武 不 足 法 。周 公 孔 子 為 不 足 師 。毀 孟 子 為 盜 儒 。謗 周 程 張 朱 為 剽 竊 。欺聖 欺 天 。無 倫 無 理
(...
tự dĩ vi đạo ưu ư Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp,
Chu Công Khổng
Tử vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương Chu vi
phiếu thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý).
(23) Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính
tuân theo, xếp thứ tự ngay sau đạo sắc đề ngày
4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406). Việt
kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 16a - 17b. Nguyên văn:
兵 入 。除 釋 道 經 板 經 文 不 燬 。外 一 切 書 板 文 字 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習。如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻 字 悉 皆 燬 之 。其 境 內 中 國 所 立 碑 刻 則 存 之 。 但 是 安南 所 立 者 悉 壞 之 。 一 字 不 存
(Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại
nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân
Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc
tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn).
(24) Điều khoản bổ sung vào sắc chỉ đề ngày 21
tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407),
Việt
kiệu thư, Q. 2, tờ 33a. Nguyên văn:
屢 嘗 諭 爾 凡 安 南 所 有 一 切 書 板 文 字 。 以 至 俚 俗 童蒙 所 習 。 如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻字及 彼 處 自 立 碑 刻 。見 者 即 便 毀 壞勿存 。今 聞軍 中 所 得 文 字 不 即 令 軍 人 焚 毀 。必 檢 視 然 後 焚 之 。 且 軍 人 多 不 識 字 。 若 一 一 令 其如 此 。必 致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾 今 宜 一 如 前 敕 。號 令 軍 中 但 遇 彼 處 所 有 一 應 文 字 即 便焚 毀 。 毋 得 存 留
(Lũ
thường dụ nhĩ, phàm An Nam sở hữu nhất thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng
mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ
chích tự cập bỉ xứ tự lập bi khắc, kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn. Kim văn
quân trung sở đắc văn tự bất tức lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên
hậu phần chi. Thả quân nhân đa bất thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử,
tất trí truyền đệ di thất giả đa. Nhĩ kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh
quân trung đãn ngộ bỉ xứ sở hữu nhất ứng văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn
lưu).
(25) Chỉ người Việt.
(26) Sắc chỉ đề ngày19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5
(25.6.1407), Việt kiệu thư,
Sđd, Q. 2; tờ 32a. Nguyên văn:
今 安 南 已 平 [。 。 。] 除 制 諭 外 應 發 去手 敕及 記 事 小 帖 成 國 公 領 帶去 小 冊 子。及 條 畫 事 件 。盡 數 檢 對 。 密 封 繳 來 。 不 許 存 留 一 字 。 漏 落 在 彼 不 便
(Kim An Nam dĩ bình
[...] Trừ chế dụ ngoại ứng phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành Quốc
công lĩnh đới khứ tiểu sách tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối, mật
phong kiểu lai. Bất hứa tồn lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện).
&
Những nhục hình khủng khiếp ở Trung Quốc thời xưa
Ngày hôm nay vẫn còn áp dụng cho Pháp Luân Công
Những
bức tranh được tìm thấy trong sách cổ đã phác họa lại
những
nhục hình khủng khiếp thời xưa tại Trung
Quốc.
§
§
Người ta vẫn thường nghe kể hoặc đọc
được trong sách cổ về những nhục hình ghê rợn như tứ mã phanh thây, mổ bụng moi
gan, chặt đầu lột da, bỏ vạc dầu…, nhưng nhiều người vẫn chưa hình dung được những
hình phạt khủng khiếp này.
Sau đây là hình ảnh của những nhục
hình mà Minh Thành Tổ đã dành cho dân Việt trong suốt 20 năm (1406-1427).
Xuất xứ : Tài liệu này lấy trong Tứ Khố Toàn Thư ở Bắc Kinh.
Nhà
Thanh tức rợ Kim (Mãn Thanh ngày hôm nay) là ngoại chủng đánh chiếm nước
Tàu. Vì muốn hủy diệt văn hóa Tàu để người Tàu tự nguyện thắt bím như người Mã n Thanh nên phải tiêu diệt văn hóa
của dân Tàu mà ta quen miệng gọi là dân Hán.
Nhưng nhà Thanh đã khôn khéo bằng
cách hạ lệnh gom hết các sách và chia làm 4 loại để vào 4 kho ở Bắc Kinh cho
thiên hạ tự do đến tra cứu với mỹ từ là: Tất cả các sách đều là chữ Thánh Hiền
nên phải được bảo quản kẻo thất truyền. Người dân phải đem nộp để chánh quyền
bảo quản, ai trái lệnh mất đầu với lý do coi thường văn hóa người xưa.
Đem vô Tứ Khố Toàn Thư thì được, sỹ
phu đến để tham khảo cũng được tự do…..nhưng di chuyển khó khăn nên ít người
tới thăm.
Ø Toàn Thư : Thư là sách, Toàn là tất cả.
Cước
chú :
Danh xưng Việt Nam mới có từ thời Gia Long (1802) do vua Tàu là
Càn Long phong cho danh xưng này.
Lúc đó Nguyễn Ánh sai sứ giả đem trả ấn tín ban cho Quang Trung và
xin được phong niên hiệu là Gia Long (khởi binh từ Gia Định, thành công ở Thăng
Long nên xin niên hiệu là Gia Long) và quốc hiệu xin đổi thành Nam Việt (tức
đất của Triệu Đà khi xưa, phía nam sông Dương Tử là đất của người Việt), ý muốn xin Quảng
Đông mà vua Càn Long đã hứa cho vua Quang Trung làm của hồi môn khi đồng ý gả
công chúa cho Ngài nhưng không dám ngỏ ý. Biết như vậy nên vua Càn Long phết
cho quốc hiệu là Việt Nam ; có nghĩa là dân Việt ở phía Nam thì Trẫm phong
cho vương hầu, còn dân Việt ở phương Bắc (từ Quảng Đông lên đế sông Dương Tử) là dân của Trẫm cai
trị đừng có lộn xộn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét