Soạn giả: Nam
Ðịnh
ngày 20 septembre 2014
NGUYÊN NHÂN
THẢM TRẠNG NGÀY
HÔM NAY
------------------------
Ðôi lời tâm tình:
Chương trình Nhân Văn Việt Tộc nhằm mục đích đào tạo hiền tài giúp nước
cứu dân thoát khỏi Tư Duy Nô Dịch và Tư Tưởng Hủ Lậu.
Chương trình này gồm 2 phần đáp ứng cho nhu cầu hiện tại: Gây Vốn về
Việt Học và Thoát Hiểm Hán Hóa.
Ø
Có bột mới
gột nên hồ, dục tốc bất thành nên không thể đốt giai đoạn được.
Hai năm đầu: Dùng văn hóa
Việt gốc và Lịch Sử Việt trung thực, viết bằng những tấm lòng của người Việt
với mục đích là:
1. Phục hồi tinh
thần Việt tộc để kết hợp toàn dân, thì mới cứu nước giúp dân được.
2. Xây dựng tư duy
độc lập, thì mới thoát khỏi cảnh dịch chủ tái nô được.
3. Gây vốn để có sự tự
hào chánh đáng của dân tộc để hậu thế noi theo, thì mới có ý chí dân thân
cho việc cứu nước được.
Thời nào cũng vậy, việc nước cần toàn dân góp sức. Khi biến cũng như khi
bình đều gặp nhiều khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua nổi.
Ø
Vậy tại sao
người xưa đã nhiều lần cứu nguy dân tộc khỏi nạn tiêu vong, mà ngày hôm nay
chúng ta lại chịu bó tay????!...... Không thể buông xuôi được.
Ø
Sở dĩ bó tay là vì tinh
thần yếm thế do kẻ thống trị đầu độc từ nhiều thế hệ đã qua.
Nhìn đâu
cũng thấy dân Việt thua kém người cả. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa khai
dụng sức mạnh của trái tim và của bộ óc mà người xưa gọi là Sức Mạnh Tâm
Linh....Do đó phải Canh Tân Tư Tưởng, thay đổi Tư Duy thì mới thoát
hiểm họa Hán Hóa được.
ÐÑ
Bài giảng này (Nguyên Nhân Thảm
Trạng) là gạch nối giữa giai đoạn thứ nhất và giai đoạn thứ nhì.
Giai đoạn thứ nhất (2 năm học) với
chủ đề:
Phục hồi tinh thần Việt tộc và xây dựng tư duy độc
lập.
Giai đoạn thứ nhì (5 năm học) với
chủ đề:
Canh tân tư tưởng, thay đổi tư duy để khỏi bị đào
thải.
Ø
Bài Nguyên Nhân Thảm Trạng cho chúng ta nhìn
thấy hướng đi để thoát hiểm họa tiêu vong (cái
vốn phải có).
Ø
Còn học thuyết thoát hiểm là công việc của hệ
trẻ (20/30 tuổi).
Ðừng nói đến Thoát Trung do Việt Cộng tung hỏa mù, để tản lực và chia trí.
Muốn độc lập thì phải nói đến độc
lập Tư Tưởng và Tư Duy trước tiên; vì không thể canh tân đất nước với tư
tưởng lạc hậu lỗi thời cùng Tư Duy nô dịch vào Học Thuyết Mác, Lê, Mao, Khổng
Tử hay một vài thánh nhân nào đó được.
Ðó là con đường dắt tới nô lệ tư duy, làm thui chột óc sáng kiến.
Thật vậy, vạn vật biến đổi không
ngừng nên Tư Duy và Tư Tưởng phải được cập nhật với bối cảnh Ðiện Tử ngày hôm
nay......Các vị thánh nhân hay các xác chết có hình dung ra được cái xã hội
loài người ngày hôm nay đâu mà cho ý kiến?
Tổ tiên chúng ta vẫn dạy :
Con hơn cha
là nhà có phúc.
Vậy thì mắc mớ chi phải ôm ấp tư duy
nô dịch? Do đó chính thế hệ đương thời phải tìm ra lối thoát cho chính mình,
không thể "đơm đó ngọn tre" mà hòng có cá lọt đơm được.
Ø Vì thế nên Ban Học Vụ, rất mong mỏi nhận được sự
tiếp tay của các hiền tài để chương trình được phong phú, thế hệ này chưa có
dịp để học trực tiếp do người soạn giảng giải, thì thế hệ sau sẽ có dịp học
theo hàm thụ trên tài liệu để lại.
Vì hoàn cảnh
không cho phép nên sự tiếp xúc của chúng tôi rất hạn hẹp, hơn nữa chúng tôi chủ
trương đi xây dựng tinh thần Tự Trọng và Cầu Tiến cho hậu thế nên chúng tôi
không thể nào hạ mình để nài nỉ mọi người sắn tay giúp nước cứu dân được……Đây
là việc làm vì nghĩa hy sinh.
Chúng tôi thấy việc cần phải làm thì
đề xướng, và xung phong đi bước đầu để thấy rằng :
"Việc
làm này không khó lắm đâu mà có thể vận dụng được
sức
mạnh Tâm Linh của toàn dân để cứu nước giúp đời".
Quý vị dạy con cái ra sao thì viết
ra sách để người khác bắt chước.
Tóm lại : Ban Học Vụ rất
mong quý vị tiếp tay tùy theo khả năng của mình: Từ soạn bài, giảng bài, cung cấp tài liệu cho đến cổ động cho
chương trình này bằng cách phổ biến hay giảng giải trong lớp văn hóa Việt,
hoặc cho ý kiến để chương trình gặt hái được thành quả tốt đẹp hơn.
Xin quý vị liên lạc với:
§
Ban giảng sư
: buungocson@sky.com hay
§
Ban tài
Liệu: vuvietnhan532@gmail.com
Ngoài ra quý vị có thể vào Site Web của ban Học Vụ: nhanvanviettoc.blogspot.com lấy bài xuống để nghiên cứu trước khi
nhận lời cộng tác với chúng tôi.
Mong lắm thay .
Ban Học Vụ cẩn cáo
q
BÀI HỌC
Bài này gồm 4 phần:
I/- Phần
Giáo Khoa dành cho Học Viên.
II/- Phần Tham Luận dành cho Giảng Viên.
III/- Phần Trau Dồi Kiến Thức.
IV/- Phần Thực Tập dùng để khảo bài.
------------------------------------
I/- Phần Giáo Khoa dành cho học viên
NHẬN XÉT
Trong xã hội loài người, vấn đề hợp quần để gây sức mạnh chỉ có 2 yếu tố
là Kinh Tế và Văn Hóa.
-
Kinh tế là
yếu tố để kết hợp với nhau bằng tiền nối liền với quyền lợi của người dân.
-
Văn Hóa là
yếu tố để kết hợp với nhau bằng tình, bằng nghĩa giữa con người với nhau.
Xét cho kỹ thì tuy chúng ta thua kém về kinh tế nó kéo theo sự tụt hậu
về kỹ thuật và yếu hèn về quân sự; nhưng chúng ta có sức mạnh của trí óc (tâm linh) không thua kém bất cứ dân tộc
nào.
Ø Vì thế nên chúng ta chỉ bàn về mặt trận Văn Hóa mà
thôi.
-
Thật
vậy, tất cả những trang sử oai hùng như
Lý, Trần, Lê và Tây Sơn đều dựa vào Văn Hóa để kết hợp toàn dân nên đã giành được
quyền tự chủ.
-
Còn những
thời suy thoái đều là những thời mất nhân tâm như Hồ Quý Ly, Lê Chiêu Thống, Gia Long hay
Hồ Chí Minh; hoặc người dân không sáng suốt nên để mất lãnh tụ anh minh như
thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm mà ta gọi là Ðệ Nhất Cộng Hòa.
Ø
Nói cách
khác là: Tư Tưởng lạc hướng nên mất nước.
Ø
Nói theo
thời Hùng Vương là: Hồn Nước mất trước, nước mất sau (Thục Phán xây thành cổ loa ghi trong chuyện Trọng
Thủy, Mỵ Châu là một chứng tích hùng hồn)
Ngày hôm nay, nhìn thẳng vào sự thật thì sự kết hợp toàn dân vẫn chưa
thực hiện được đúng mức; vì thế nên Việt Cộng còn ngự trị trên nước ta, mặc dù
thất nhân tâm.
Mọi người ca thán nhưng chỉ ngồi chửi đổng, chờ thời với tinh thần vọng
ngoại để mong được Dịch Chủ Tái Nô?
¯
Ngày trước xã hội loài người chỉ có
3 mặt trận chính để bảo vệ nền kinh tế của mình. Ðó là:
1. Mặt trận Văn
Hóa dùng để kết hợp toàn dân thì mới tạo được sức mạnh. Mặt trận này cần
chương trình giảng dạy và khối Giảng Sư có trình độ cao và sâu về môn Việt Học.
2. Mặt trận Chính
Trị dùng để thuyết phục đối phương hy sinh cho mình hưởng; mà ta gọi là
thuyết khách. Mặt trận Chánh Trị cần sự khôn ngoan, lắt léo của các nhà Ngoại
Giao.
3. Mặt trận Quân Sự dùng sức mạnh bắp thịt để bắt
người làm nô lệ cho mình. Mặt trận Quân Sự cần nền kinh tế phồn thịnh để nuôi
quân đông, tướng nhiều và phương tiện dồi dào.
NHƯNG, ngày hôm
nay loài người có thêm 2 mặt trận mới là Truyền Thông và Di Chuyển.
a.
Phương tiện di chuyển giúp người dân di tản từ vùng đất chiến
tranh đến hậu cứ an bình trên toàn thế giới. Sinh đẻ nhiều là một vũ khí để bảo
vệ sự sinh tồn.
b. Phương tiện
Tuyền Thông giúp mọi người cập nhật thông tin đa chiều nên người dân biết chỗ
nào là đất lành để tìm đến.
Vậy tại sao
chúng ta lại không khai dụng phương tiện truyền thông để mở lớp học về Nền Văn
Hóa Việt Chính Thống nhỉ?
Mục tiêu
chính là:
P Phục hồi
tinh thần Việt tộc để kết hợp toàn dân, và xây dựng tư duy độc lập để xóa
bỏ tư tưởng dịch chủ tái nô.
P Sau đó trau dồi kiến thức cho
hợp với thời đại toàn cầu hóa mà ta gọi là nâng cao dân trí.
Thiết nghĩ đây
là lối thoát duy nhất của dân Việt, và cũng là công việc của chính người Việt
không thể trông chờ vào ngoại bang được.
ÐỊNH NGHĨA
NGÔN TỪ
A)
Thế nào là : Văn
Hóa? Tư Duy ? Tư Tưởng? Triết Lý?
B)
Nguồn gốc của Lý Dịch và Kinh Dịch.
C)
Di chỉ của văn hóa.
D)
Cách tìm Văn Hóa người xưa.
E)
Nguồn gốc Văn Hóa từ đâu mà ra? Tại sao lại cần phải tìm hiểu cội
nguồn của Văn Hóa?
F)
Bàn về cách thoát hiểm theo lời căn dặn của cha Lạc Long
Sau khi tìm được
căn nguyên lạc hướng thì lúc đó mới học hỏi kinh nghiệm người xưa để tìm cách
vươn lên bằng người.
A)- Văn hóa ;
Tư duy ; Tư Tưởng và
Triết Lý
Văn Hóa là gì?
Văn Hóa là nếp sống, là sinh hoạt
thường ngày trong cách giao tế và cách suy
nghĩ của đại đa số người Việt.
Suy nghĩ có 2 loại : Thẩm định
thành quả (tư duy) và đề ra cách giải quyết (tư tưởng)
Tư Duy là gì?
Tư Duy là phê phán sự việc đã xảy ra
theo suy luận của mình….Ở đây chúng ta chỉ nói đến việc nước mà thôi.
·
Tư là suy nghĩ kỹ càng (ưu tư) sự việc, còn duy là phê phán theo
trình độ của mình.
Tư Tưởng là gì?
Tư Tưởng là ý muốn giải quyết vấn đề
theo mục tiêu nào đó mà mình thấy là đúng, là cần....Ở đây chúng ta chỉ bàn đến
về vấn đề thoát hiểm của đất nước mà thôi.
·
Tư là suy nghĩ kỹ càng với những bằng chứng xác thực, còn Tưởng là
ý muốn.
Triết Lý là gì?
Triết Lý là lý lẽ vận hành của vạn
vật.
Triết là môn học về sự vận hành của
vạn vật, cái này dưới môi trường này thì sẽ sinh ra cái kia....... Lý là lẽ
biến hóa tự nhiên của vạn vật.
²
B) - Nguồn gốc của Lý Dịch và Kinh Dịch
Lý Dịch là lý lẽ
biến hóa của vạn vật nó có tính cách giới hạn theo sự hiểu biết cá nhân.
Kinh Dịch là nguyên
lý biến hóa của vạn vật không bao giờ sai.
·
Lý Dịch là của sắc dân Nông Nghiệp, tức
Bách Việt (trong đó có tổ tiên chúng ta), ngắm các vị sao (định tinh: Etoiles) trên bàu trời để đoán mùa cầy cấy hay dự đoán tương
lai.
·
Kinh Dịch là của ông Khổng Tử, lấy từ Lý Dịch
của người Việt ra để ngụy biện cho thuyết Thiên Tử của mình bằng cách diễn giải
Lý Dịch theo triết lý của ông được gọi là "Soán Truyện"….Do đó mới có
số mệnh, tử vi, bói toán và xin xâm (nhờ thần bốc hộ 1 quẻ)
Ở đây chúng ta không bàn đến DỊCH,
tức biến hóa của vạn vật.
²
C) - Di sản của Văn Hóa
Nông nghiệp :
Dân Việt sống về nghề nông nên nếp
sống và cách suy nghĩ để thẩm định, phê phán sự việc đều lấy tình người làm căn bản. Kẻ thù là thiên
nhiên, mất mùa thì chết đói: Quan cũng như dân.
Ø
Nên nếp sống này được gọi là nền văn hóa nhân bản (theo mẫu
hệ).
Du-mục :
Dân Tàu sống về chăn nuôi, dựa trên
bắp thịt nên có nền văn hóa thiên nhiên:
Mạnh được yếu thua, lý kẻ khỏe bao giờ cũng cứng. Tức theo luật rừng và luật
biển (cá lớn nuốt cá bé).
Ø
Do đó mới có vấn đề trọng nam khinh nữ (theo phụ hệ)…Đàn bà
không phải là người mà là NGỢM !
Văn hóa có từ thời quần cư, cách đây
vào khoảng 15.000 năm. Lúc đó chưa có chữ viết thì những di tích để lại đều
bằng bia miệng như cao dao, tục ngữ, câu hò, tiếng hát hay huyền thoại.
Về sau, khi văn minh vật chất thăng
tiến thì mới có Văn Chương, Âm nhạc, Hội họa, Thi ca, Ðiêu khắc ....dùng để ghi
lại nếp sống vật chất hay tinh thần ở thời điểm đó. Nếu nhiều người phụ họa thì
nó mới còn truyền tụng cho tới ngày hôm nay mà ta gọi là cổ vật, hay di vật;
còn không thì nó đã chết ngủm từ lâu rồi.
Vậy thì:
-
Văn Chương, Văn Học, Âm nhạc, Hội họa, Thi ca, Ðiêu khắc, Kỹ thuật,
Mỹ thuật, Kiến trúc chỉ là những di tích phản ảnh Văn Hóa chứ chính chúng không
thể gọi là văn hóa được; nên được xếp vào phản ảnh của Văn Hóa, chứ không thể
nào xếp chúng vào Văn Hóa được.
Tỷ dụ: Chữ viết không phải là tiếng
nói.
Tiếng nói là
hình (cụ thể) còn chữ viết là cái bóng (vô hình) của tiếng nói.
-
Danh từ Văn Học có nghĩa là học những cái gì tốt đẹp của dân tộc.
Những bản văn
có giá trị đều được xếp vào loại Văn Học như hịch tướng sỹ của Ðức Thánh Trần ;
Bình Ngô Ðại Cáo của Quốc Sư Nguyễn Trãi ; thơ của thi sỹ Hồ Xuân Hương ;
Ðoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du......... đều là những bản văn thuộc di sản của Văn Học, chúng ta dựa vào đó
để tìm hiểu tư tưởng người thời đó.
Còn những
bản văn không có giá trị hoặc tục tĩu thì đã bị phế thải theo thời gian vì
không có người phụ họa, như thơ Tố Hữu hô hào chém giết cho Ðảng Việt Cộng được
sống lâu, hay hố xí 2 ngăn của "Bác" Hồ thì nó chết ngủm theo
« Bác » từ lâu rồi.
-
Còn Việt Học là học về đất Việt và con người Việt có từ ngày khai
quốc (2.879BC).
-
Nhân Văn là học làm người tốt, nghĩa là con người có nếp sống
thanh tú và cao thượng.
-
Chương trình Nhân Văn Việt Tộc là chương trình học làm người Việt
tốt trong thế kỷ Toàn Cầu Hóa này. Chương trình này chỉ có giá trị lật đổ
bạo quyền bằng chính bàn tay của toàn dân để xây dựng cuộc sống hài hòa
giữa các sắc tộc sinh sống trên mảnh đất Việt Nam hiện nay mà thôi.
²
D) - Cách tìm Văn Hóa người xưa
-
Muốn tìm hiểu văn hóa thì bắt buộc phải dựa vào những di vật của văn
hóa thời đó thì mới suy ra được nếp sống và tư tưởng của dân Việt ở thời đó.
-
Muốn dựa vào di vật để suy đoán thì phải nhờ đến:
P Khoa học (scientifique) để định tuổi của di
chỉ.
P Khoa khí quyển học (nhiệt độ
thăng trầm và sự cấu tạo của bàu khí quyển) để biết cuộc sống của nhân loại
theo sự trồi sụt của mực nước biển Ðông (dấu tích còn trên vách đá phủ rêu như
ở vùng sa mạc Arizona bên Mỹ hay trên các vách đá ở Normandie bên Pháp)
P Khoa khảo cổ học để biết rõ nếp
sống người xưa.
P Khoa nhân chủng & di truyền học để biết rõ tổ tiên ngày
xưa ở đâu và sống ra sao.
P Văn chương truyền khẩu (bia
miệng) : Huyền Thoại, ca dao, tục ngữ, thành ngữ… để suy đoán tư tưởng
thời đó.
P Môn sử học (ở đây là sử Việt trung thực,
không bị bóp méo để phục vụ chánh trị).
E) - NGUỒN GỐC VĂN HÓA
(theo khoa học ngày hôm nay)
Con người lúc đầu sinh ra ở Phi Châu
(phía tây nam nước SOMALIE ngày hôm nay). Với chứng tích khảo cổ mà chúng ta
biết thì loài người có mặt trên trái đất vào khoảng 2 triệu năm nay.
Ở thời xa xưa, bàu khí quyển chưa có
dưỡng khí (oxygène), các vi khuẩn khi chết đi thì biến thành đá, không bị thối
rữa vì không có dưỡng khí và hơi nước tác động để thành thối rữa như ngày hôm
nay.
·
Ðây là hiện tượng hóa thạch mà ta có thể kiểm nghiệm ở vùng núi
lửa ở Pompéi (gần ROMA) bên nước Ý.
·
Lúc khởi thủy thì trái đất là một quả cầu lửa do mặt trời phát nổ
sinh ra vào khoảng 4,6 tỷ năm nay.
·
Khi nguội thì bên ngoài biến thành lớp cứng gọi là vỏ. Ngày hôm
nay vỏ trái đất dày 980Km, sau đó là
cùi mềm 1.920Km và bên trong là ruột ở thể lỏng với nhiệt độ rất cao, ở
giữa là lõi đầy kim cương vàng bạc
là loại có tỷ trọng nặng nhất.
·
Sinh vật bắt đầu xuất hiện khi trái đất nguội, có vỏ cứng và bàu
không khí lạnh để nước biển rút đi và lục địa hiện ra.
·
Số lượng nước không thay đổi từ khi có trái đất đến nay. Khi nóng
thì biến thành mây thành khói, lạnh thì biến thành nước còn quá lạnh thì biến
thành băng tuyết nên mức nước biển thấp xuống để hiện ra lục địa cho sinh vật
trên cạn có thể sống được.
²
Vì con người là sinh vật săn mồi
vụng-về nên bộ óc bắt buộc phải nảy nở để sinh tồn.
·
Cái này chúng ta gọi là sức
mạnh của trí tuệ mà động vật khác không có chỉ vì chúng an phận sống
với khả năng trời cho.
Từ ngày kiếm ra lửa (thời kỳ đồ đá
ghè cho vừa với bàn tay) cho tới ngày biết dùng lửa để làm đồ đất nung mà ta
gọi là đồ gốm, phải mất hàng chục ngàn năm. Sau đó mới đi chinh phục các vùng
giá lạnh là nhờ vào sức mạnh của trí tuệ nó đưa đến tinh thần cầu tiến. Khi
sống thành cộng đồng thì có tình thương mà ta gọi là tình người; đây là sức
mạnh của con tim (§3-bước chân loài người)
²
Ðến khi biết tự sản xuất ra thực
phẩm để bảo đảm cuộc sống (vào khoảng 15.000 nay, tức #13.000BC) thì lúc đó mới
có cuộc sống quần cư và phát sinh ra tiếng nói; nhân số gia tăng vòn vọt. Trước
đó chỉ có khoảng 3 triệu nhân số trên toàn thế giới mà nay đã thành 7 hay 8 tỷ
nhân số mà ta gọi là nạn nhân mãn.
Lúc ban đầu, chỉ có 2 nếp sống quần
cư là: Du-mục (sống bằng nghề chăn nuôi gia súc) và Nông-nghiệp (sống bằng nông
phẩm có ruộng để chăm lo)
-
Dân du-mục sống theo đồng cỏ (STEPPE) nên phải di động, do đó có đời
sống du cư. Trung tâm phát triển là vùng Trung Ðông (Iran ngày hôm nay).
-
Dân nông-nghiệp có cuộc sống định cư quanh ruộng. Trung tâm phát
triển là bờ biển Ðông ngày hôm nay (từ Phi Luật Tân vòng xuống Mã Lai, Nam Dương Quần Ðảo)
Vì thế nên lúc khởi thủy chỉ có 2
nền Văn Hóa là: Văn Hóa Du-Mục (theo luật rừng) và Văn Hóa Nông-Nghiệp (tình
người mà ta gọi là nhân bản)
Cách đây 20.000 năm (18.000BC), nước
biển Ðông thấp hơn ngày hôm nay là 130,5 mètres. Từ biển Ðông (Phi Luật Tân) sang
tới IRAN (Trung Ðông) là cánh đồng tuyết phủ bao la không có sự sống. Việt Nam
với Phi Luật Tân và Nam Dương Quần
Ðảo là đất liền.
Cách đây khoảng 15.000 năm (tức
#13.000BC) nước biển bắt đầu dâng trung bình là 2cm mỗi năm. Ðến khoảng cách đây
8.000 năm (tức 6.000BC) thì ngưng và mực nước cao hơn ngày hôm nay là 10,3mètres;
vì lúc này bàu khí quyển nóng nên băng tuyết tan thành nước.
Sau đó bàu khí quyển lạnh trở lại,
nước đóng thành băng tuyết nên nước biển Ðông rút xuống bằng mực nước ngày hôm
nay thì ngưng lại, vào khoảng 3.500BC (cách nay là #5.500 năm)
Ðây là trận Ðại Hồng Thủy gần chúng
ta nhất. Trước đó từ 14.000 về trước đến 8.000 năm về trước thì trái đất có cả
thảy 4 trận Ðại Hồng Thủy.
Khi nước biển rút đi thì dân nông
nghiệp khi trước di lên Hy Mã Lạp Sơn và Trường Sơn, nay lại theo triền sông
kéo xuống bờ biển lập nghiệp.
Lúc này dân sống về nông nghiệp ở
vùng đất phía đông mới có cuộc sống quần cư và ổn cư; trong khi đó
thì dân Du-mục ở Trung Ðông có cuộc sống quần cư nhưng du cư theo
cánh đồng cỏ (Steppe) từ đó tiến lên biển Caspienne. Tới đó thì quá lạnh nên
một nhánh rẽ sang phía tây ; qua Hắc Hải (mer noire) đến tận Âu Châu thành
dân Hy-lạp và La-mã ; còn một nhánh rẽ sang phía đông qua KAZAHSTAN (đất
của người Kazah) đến Mông Cổ và Mãn Thanh thì gặp biển nên di xuống phía nam
tới sông Hoàng Hà thì gặp sắc dân nông nghiệp mà ta gọi là con cháu Ðế Nghi
(huyền thoại).
Lúc đầu là người Hạ nên gọi là nhà
Hạ (#1.700BC) chưa có luật lệ nên không thể gọi là một Quốc Gia được; họ sống
cạnh dân nông nghiệp và thỉnh thoảng 2 bên sang cướp của nhau vì nhu cầu sinh sống.
Mãi về sau, dưới thời Lã Hậu (183BC), mụ ta đẻ ra cái tên là Trung
Hoa (trung
tâm tinh hoa của vũ trụ) để
lấy lý cớ xâm lăng, nên người dân dưới thời nhà Hạ được truy thăng thành người HOA HẠ cho oai !
Sau nhà Hạ thì đến nhà Thương bắt đầu
từ 1.500 BC, nhưng phải đợi mãi đến năm 1.300 BC thì 2 bên (nông nghiệp và
du-mục) mới hiểu nhau qua sự sáng chế ký hiệu "tượng hình và hội ý". Không
có ký hiệu tượng « thanh » vì mỗi bên phát âm theo kiểu của mình.
Nên nhớ là lúc này chưa có chữ viết
vì chưa có cái nền (support) mà ta
gọi là giấy để viết lên rồi đem theo; nên tuy là chữ đấy nhưng chưa viết thành
câu, thành chương, thành quyển được.
Tuy vậy nhưng Quốc Gia cũng bắt đầu được
thành hình với luật lệ đàng hoàng và có lực lượng võ trang để thi hành luật pháp
hẳn hoi. Trong khi đó ở phía nam sông Dương Tử (tức Trường Giang chảy qua Thượng Hải) thì
con cháu Lộc Tục (huyền thoại) đã lập quốc để đánh nhau từ 2.879BC, đó là nước
Ngô, nước Sở và nước Việt. (§4- Bài số 2: Văn Hóa Tàu từ Việt mà ra)
Nhà Chu diệt nhà Thương vào năm
1.122BC. Vì muốn diệt tận gốc nền văn hóa chung sống hòa bình nên dân nhà
Thương phải chạy qua Mỹ, tức dân da đỏ ngày hôm nay (khảo cổ cho biết như vậy).
Vì thiếu người quản lý vùng đất bao
la đã chiếm được nên nhà Chu mới đẻ ra chế độ Phong Kiến (Kiến là nhìn
và Phong là cho), tức nhìn trên bản đồ rồi khoanh vùng, cấp đất cho từng bộ hạ
một quản trị theo luật của họ (mỗi vùng một luật). Vì thế nên mới đặt ra tước
Công, Hầu, Bá, Tử, Khanh... để chia đất
nhiều hay ít, tốt hay xấu. Người dân chấp nhận làm nô lệ cho « chủ
trại » với quan niệm ‘Đất của chúa, lúa của trời’.
Chế độ Phong Kiến khác với chế độ Lãnh
Chúa của dân Tây Phương; mặc dù cùng quan điểm « Đất của chúa, lúa của
trời » ; chế độ này bị Tần Thủy Hoàng (221BC-208BC) tận diệt để xây
dựng chế độ Ðế Chế Toàn Trị (tức chế độ Cộng Sản ngày hôm nay mà người đẻ ra nó
là Vệ Ửng, đời bố ông nội Tần Thủy
Hoàng Ðế ; tức ông Cố).
Tiếp theo sau là chế độ Quân Chủ độc
tài và chuyên chế bao trùm thảm họa cho dân Tàu từ ngày đó cho đến nay....đẻ
con gái được quyền bóp mũi cho chết!...Nói chung là dân Tàu từ đời nhà Chu cho đến
nay chưa hề được hưởng tự do và no ấm.
Lưu ý: Chế độ PHONG KIẾN chỉ tồn tại dưới
thời nhà Chu. Chế độ Quân Chủ không phải là chế độ Phong Kiến; mà Quân Chủ cũng
có nhiều loại khác nhau, không phải loại nào cũng đều bóc lột cả đâu.
F) - Bàn về cách thoát hiểm theo lời cha Lạc Long
Bố Lạc Long căn đặn các con nguyên văn
như sau:
"Chừng nào giặc thù
tới cướp phá, chống đỡ không nổi thì gọi bố ơi! về cứu
chúng con"
Giải mã thì thấy:
1. Giặc thù là
sự u tối trong lòng: Hồn nước mất trước, nước mất sau.
2. Hãy tự hỏi
là : Mình có muốn chống giặc nội tâm hay không?
3. Nếu chống
không được thì bố Lạc Long bảo: Sức mạnh Tâm Linh chưa dùng tới. Muốn có thì
phải trau dồi Văn Hóa, Lịch Sử và Tư Tưởng Việt cùng Học Thuyết thoát hiểm của
người Việt cho thấm nhuần thì mới thành chính quả được.
¯
Nhân Văn
Việt Tộc
Thế nào là người Việt tốt ở kỷ
nguyên Toàn Cầu Hóa đang đi tới?
-
Người Việt là người có tinh thần Tự Trọng và Cầu Tiến để
biết cách sống cho mình và sống cho người.
Tinh thần Tự Trọng nằm trong ý nghĩa của danh từ Văn Lang
Còn tinh thần Cầu Tiến là ý
nghĩa của danh từ Việt.
Làm sao để trở thành người Việt tốt?
Muốn thành người Việt tốt thì phải
trau dồi kinh sử nước Việt để biết sự thăng trầm của dân Việt. Ðể biết cách
sống cho mình và sống cho người.
Với phương tiện truyền thông hiện đại
thì không cần phải nắm quyền cũng vẫn làm được; nhất là chúng ta có một khối
lượng không nhỏ người Việt sinh sống ở hải ngoại mà phần lớn sinh sống ở các
nước tân tiến nhất thế giới.
Muốn Canh Tân đất nước ư?....Chúng ta
đâu có thể Canh Tân đất nước với Tư Duy nô lệ và Tư Tưởng lạc hậu, lỗi thời như
Việt Cộng ca-tụng được?
Chúng ta phải cương quyềt xóa bỏ
nghịch cảnh ngày hôm nay
q
Luận về
Chánh Triều và Ngụy Triều
Thế nào là
chánh nghĩa?
·
Ðối với sắc dân du-mục thì quan
niệm của họ là "đất của chúa, lúa của trời"...Do đó:
a. Họ chỉ có
Lãnh Chúa. Ông này dùng bạo lực để chiếm đất rồi cho người đến tá túc làm nô lệ
cho ông chúa này nên mới có chữ Trung
Quân, tức phải trung thành với ông « chủ trại »;
mình chỉ là tôi mọi, nhờ ơn mưa móc nên mới có đất dung thân.
b. Chiến tranh
thì dân chết, thành quả thì Chúa hưởng trọn.
c. Về sau cần
phải liên minh với nhau để thành Quốc Gia thì mới sống nổi (hợp quần gây sức
mạnh), lúc này mới đẻ ra "quốc kỳ" để đi họp với các quốc gia khác.
d. Quốc kỳ của
họ không có nền, là vì bình đẳng
giữa các lãnh chúa với nhau cho nên không có ai là quan trọng hơn ai cả. Chữ
Nền có nghĩa là phần căn bản như nền nhà, nền Văn Hóa, nền tảng Kinh Tế; tiếng
Pháp gọi là La Base.
·
Ðối với sắc dân nông nghiệp thì có dân
rồi mới có người bảo vệ đất nước. Do đó:
a. An dân là chánh, chánh quyền là phụ (dân là
ông chủ, chánh quyền là đầy tớ nên mới có chữ công bộc của dân)
b. Chiến tranh thì người dân hy sinh xương máu để
bảo vệ đất nước chứ không phải bảo vệ triều đình. Thành công thì toàn dân được
hưởng, lẽ dĩ nhiên là triều thần cũng được hưởng ké.
c. Vì quan niệm dân chủ phân quyền (lệnh vua còn
thua lệ làng) nên dân Việt có "dân
tộc kỳ" chứ không có "quốc
kỳ" như Tây Phương; mặc dù có
đã quốc gia. Mà dân tộc kỳ phải mang nền
vàng của tơ tầm, có nghĩa là người dân Việt làm chủ đất nước này chứ không
triều đình hay đảng phái nào làm chủ được. Quốc kỳ là sáng kiến của dân tây
phương vào thế kỷ thứ 14, du nhập vào nước Việt vào năm 1883 với lá cờ Tam Tài
(cờ quốc gia Pháp); còn dân tộc kỳ có từ ngày lập quốc Văn Lang (2.879BC)
Lưu ý:
Ngày nay chúng ta vẫn nói màu vàng
(lụa tơ tầm) dành riêng cho nhà vua mà ta gọi là Hoàng tộc hay Hoàng gia. Danh
từ này là chiếu chỉ của vua Lý Cao
Tông (1176-1210) hạ chiếu để phân biệt nhà vua với dân dã.
Khi trước sắc phục không có quy chế nhất định. Ông này lên ngôi chỉ lo ăn chơi,
săn bắn, bỏ bê chánh trị, không lo cho dân nên nhà Lý suy tàn từ đây.
(§12: Sách Phan Huy Chú ra năm 1820: mục
Lễ Nghi Chí)
Tóm lại:
1. Ðối với quan
niệm của dân du-mục (Tàu) thì người nào tạo dựng cơ đồ thì đất nước thuộc về
dòng họ đó, cha truyền con nối. Khi không có biến mà tự nhiên thoán nghịch cướp
ngôi thì nhà đó gọi là Ngụy Triều.
Ngụy Triều
là không phục vụ dòng họ của người đã lập nên sự nghiệp; còn đất nước và nhân
dân là thứ yếu, vua thương thì nhờ,vua ghét thì chịu (làm việc
chí chết theo khả năng, còn hưởng thụ thì theo nhu cầu
vua định tiêu chuẩn).
2. Ðối với quan
niệm của dân nông nghiệp (Việt) thì Chánh Triều là người đã có công cứu nước an
dân, dòng họ không có quyền kế thừa nếu người dân không ưa. Và ngay chính người
có công cứu nước an dân mà sau này phản bội làm cho dân hèn nước yếu thì họ
cũng mất luôn sự chánh thống và trở thành Ngụy Triều.
Vua Trần đã
nói : « Việc nước không thân ; thiên hạ của chung nên cùng nhau
bảo vệ để cùng hưởng đồng đều ». Xét vậy thì tinh thần Đồng Bào đã thấm
sâu vào máu người Việt, từ vua quan cho đến dân gian, từ thời Hồng Bàng.
Đối với dân
Việt ; Chánh Triều là Triều Ðình đó làm cho dân giàu nước mạnh như Quốc Sư
Nguyễn Trãi đã nói trong bài Bình Ngô Ðại Cáo là: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân"
Hay nghĩa
quân Tây Sơn khi làm lễ tế cờ xuất quân đã nói ý nghĩa của cuộc đấu tranh này là:
"Trừ gian, diệt bạo; cứu nước an dân"
Quản trị đất nước với châm ngôn:
"Lấy Văn Trị hòa với Võ Công"
²
Ôn lại sử
Việt về cách
tuyển dụng
nhân tài theo thi cử
Từ xưa đến nay việc nước bao giờ
cũng là việc lớn, nên có càng nhiều hiền tài bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu;
người ta chỉ nói khủng hoảng nhân tài chứ không thấy nói thặng dư nhân tài bao
giờ cả. Mà Lãnh Tụ tốt là người biết thâu nạp hiền tài.
Do đó thế hệ chúng ta phải có chương
trình huấn luyện hiền tài mà nay chúng ta gọi là chương trình Nhân Văn Việt Tộc
(học làm người Việt tốt) để cung ứng cho nhu cầu của đất nước.
Muốn xét
người lãnh đạo đất nước tốt hay xấu, thiết nghĩ không có gì tốt hơn là nghiên
cứu chương trình thi cử và chương trình học hành để đào tạo nhân tài ở thời đó.
Tuyển chọn nhân tài do quen biết
-
Nước Việt ta
từ đời Hồng Bàng
(2.879BC-257BC), theo chế độ Dân Chủ Phân Quyền với câu “Lệnh vua còn thua lệ làng”;
giấy bút chưa có nên sự tuyển chọn chỉ dựa theo kinh nghiệm sinh sống và học
hỏi lẫn nhau ở ngoài đời mà ta gọi là TRI THỨC.
Trung tâm thông tin chưa có, trường ốc cũng không. Học
hỏi kinh nghiệm thì chỉ có tính cách gia truyền nên cần phải có tiến cử. Lúc đầu
thì ở xã hội nào cũng thế cả.
-
Nhà Thục (257BC-207BC) theo chế độ quân chủ
chuyên chế, tuyển chọn theo vây cánh.
-
Nhà Triệu (207BC-111BC) theo chế độ Quân Chủ
Ðại Nghị, các quan lo việc hành chánh và binh bị đều là người bản xứ, tuyển
chọn theo tín nhiệm của người dân trong vùng.
-------------------------------------
Thời kỳ chống Tàu (111BC-939AD.
Vì bị Tàu thống trị nên tư duy lai căng, nhân tài đều là những người
chấp nhận nô lệ, ca tụng ngoại bang và sỉ nhục tổ tiên. Ðây là một loại nhân
tài vọng ngoại mà nay chúng ta gọi là: "Bồi Tây, Bồi Mỹ, Bồi Tàu".
-----------------
Thời kỳ tự chủ (939AD-1010AD)
học thuật chưa có
Thời nhà Ngô, nhà Ðinh và nhà Lê thì khoa thi cử chưa có vì kháng chiến mới thành công, nền tự chủ còn non
yểu nên tuyển nhân tài theo tiến cử hay
quen biết mà yếu tố chính là không có ý định mưu phản tiếm quyền.
Tỷ dụ: Trường hợp nhà Ðinh tin dùng Ðỗ Thích và nhà Lê tin dùng ông Lý Công Uẩn và nhà sư
Vạn Hạnh nên có chuyện thay bực đổi ngôi; nhưng xã tắc vẫn vững bền: Phía Bắc
người Tàu không dám dòm ngó, phía Nam đánh bại quân Chiêm.
Người dân vẫn yên ổn làm ăn và đất nước vẫn trên đà phát triển.
w
Thời kỳ
tuyển dụng nhân tài bằng khoa thi (1075-1883)
coi số 13 :
Khoa mục chí –Phan Huy Chú
Bắt đầu từ vua Lý Nhân Tông (1072-1127) niên hiệu Thái Ninh:
·
Năm 1075 mở khoa thi
tam trường để tuyển 10 người tài giúp vua quản trị đất nước.
·
Năm 1076 cho lập Quốc
Tử Giám, có thư viện để nghiên cứu học hành, có nội trú cho người ở xa, tuyển
thày giỏi để hướng dẫn khóa sinh thi ra giúp vua quản trị đất nước.
Ðây là
trường Ðại Học đầu tiên trên thế giới với chủ trương tuyển dụng nhân tài qua
thi cử; ở Âu Châu mãi đến 300 năm sau mới mở trường Ðại Học để tuyển dụng người
tài theo khả năng.
Ø
Ðây là triều đại đào tạo được nhiều Hiền-tài có lòng biết thương
người.
----------------------
Ðời nhà Trần (1225-1400)
có tầm nhìn rộng lớn hơn nên đã thay đổi chương trình học thuật để đào tao
Hiền-tài cho đất nước một cách hữu hiệu hơn.
Lúc này học thuật là thông hiểu Phật
Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo để vun trồng Việt Giáo sao cho có lắm hiền tài để
phục vụ đất nước với quan niệm Toàn Dân Giữ Nước mà người thời đó gọi là Tam
Giáo đồng nguyên.
Chữ nguyên có nghĩa là:
·
Toàn vẹn, không cắt xén (nguyên vẹn).
·
Lớn nhất (Nguyên khôi là người giỏi nhất,
Nguyên thủ quốc gia là vị lãnh đạo đất nước cao nhất).
·
Vùng đất (trung nguyên, cao nguyên, bình
nguyên).
·
Nguồn gốc cỗi rễ (nguyên thủy).
Ở đây chữ Tam giáo đồng nguyên có
nghĩa là:
Ø Ba đạo đó
cùng có giá trị như nhau, dùng để tham khảo cho việc cập nhật và tu bổ Việt
Giáo. Chữ nguyên ở đây có nghĩa
là lớn nhất.
Ø Vì quan niệm
Toàn Dân Giữ Nước nên vua Trần Phế Ðế (1377-1388) niên hiệu Xương Phù tính hại
Hồ Quý Ly nhưng âm mưu bị bại lộ nên bị giam trong ngục. Quân sĩ vào ngục yết
kiến thì vua bảo "Hạ Giáp" và chấp nhận cái chết chứ không màng tới
làm vua bù nhìn dưới tay gian thần là Hồ Quý Ly.
----------------------
Ðời nhà Hồ (1400-1407)
với quan niệm tân trang xứ sở nên mới cho môn Toán Học vào chương trình thi
tuyển làm quan; vì thế nên ta thấy nhiều sáng chế mới lạ như súng thần công
(súng đại bác nạp tiền, tức nạp đạn đằng trước họng súng: Gắn ngòi nổ, nạp
thuốc, nạp đạn và chít đầu súng rồi đốt ngòi bắn đạn đi).
Ø Thời gian
quá ngắn nên không có gì để rút kinh nghiệm học vấn cả.
Chỉ biết rằng : Ông Hồ Quý Ly không
thu phục được hiền tài nên cha con bị bắt sang Tàu. Ông ta cũng không đủ can đảm
tự sát nên đã để ô danh cho hậu thế.
Ø
Như vậy ông là một nhà chánh
trị non; mặc dù ông là một nhà khoa học rất giỏi. Ông hoàn toàn chịu trách
nhiệm về việc mất nước do chính ông gây ra.
-----------------------
Nô lệ nhà Minh (1414-1427)
Lúc đó,
người Tàu muốn tiêu diệt dân ta nên bắt đàn bà, con gái, người giỏi về Tàu để
làm nô lệ.
Thành Kim Lăng
ở Bắc Kinh xây bằng xương máu của dân nô lệ Việt Nam, kiến trúc sư là một vị hoạn
quan tên là Nguyễn An ; ông này có bổ phận phải sẽ kiểu và đốc thúc nhân
công xây cho đúng kỳ hạn. Đặc biệt ông phải làm sao để đem một tảng đá thiệt bự
kéo từ băng tuyết phía bắc cả ngàn cây số về để làm cầu đi qua (hình như đi vào
trong cung thì phải).
Miếng đá
phải đục tại chỗ, chờ cho trời lạnh băng tuyềt dày đặc thì kéo trên tuyết bằng
cách đi tới đâu thì đào giếng lấy nước tưới vô cho tuyết tan tới đó, rồi kéo phiến
đá trượt qua.
Nội công
việc kiến trúc thành Kim Lăng (lăng bằng vàng) này đã nướng không biết bao
nhiêu sinh mạng người Việt mà kể...Ước chừng phải cần 100.000 lao nô cho công
trường này trong vòng 10 năm.
Trong nước Việt
thì Bắc Kinh ra lệnh hủy diệt Văn Hóa Việt đến tận cỗi rễ; một chữ trên bia mộ
cũng phá đến nỗi nhà bác học Lê
Quý Ðôn (1726-1784) phải than rằng: Những sinh hoạt văn hóa
nhà Trần khi xưa mà nay còn mờ mịt không biết truy tìm ở đâu.
Học hành thì
cấm, để dân ngu dễ trị. Dân tình khổ sở vì lao dịch không ngừng, phu dịch và
lính tráng bắt cho đủ số; hình phạt thì khắt khe và dã man như: moi ruột; chặt
tay chân, khoét mắt cắt tai (§7 - Hình phạt dã man của bọn Hán Tộc)
--------------------------
Nhà hậu Lê (1427-1527)
Suy thoái tư duy bắt đầu từ đây !
1/- Vua Lê Thái Tổ, tức ông Lê Lợi (1427-1433) trị vì được
6 năm thì mất, thọ 49 tuổi. Ðây là triều đại coi ngai vàng quan trọng hơn hạnh
phúc của dân, nên ta phải phân tích cho cặn kẽ.
Nhờ vào mặt
trận Văn Hóa do Nguyễn Trãi đề xướng với kế hoạch "Bình Ngô Sách":
Lấy công-tâm, chánh-nghĩa và nhân-nghĩa làm vũ khí để diệt giặc an dân nên Ðại Vương Lê Lợi với sự trợ tá
của quốc sư Nguyễn Trãi đã đuổi được giặc Minh ra khỏi nước ta. Vì thế nên Ngài
mới chú trọng đến việc sửa sang lại nền văn học như:
-
Ðặt ra trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long để huấn luyện
nhân-tài, bên văn phải thi kinh-sử, bên võ phải thi vũ-kinh gọi chung là Minh
Kinh (Minh là sáng ngời của nền chính học). Chọn thày giỏi để hướng dẫn học
viên
-
Các Lộ (tức là tỉnh ngày hôm nay) cũng mở khoa thi Minh Kinh để
tuyển chọn những người ẩn dật ra ứng thi để làm quan, không phí phạm hiền tài.
-
Ðạo Phật và Ðạo Lão cũng được phát huy và thi cử, ai có trình độ cao
tăng thì mới được mở chùa giảng kinh.
Tuy bên
ngoài nói là đào tạo sỹ phu cho đất nước, nhưng Ngài lại coi ngai vàng quan
trọng hơn hạnh phúc của người dân: Nghi kỵ hiền tài, tin cậy vũ-kinh hơn
kinh-sử (trọng võ khinh văn).
Vì Ngài chú
trọng đến Hồng hơn Chuyên nên đã giết hại công thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn
Xảo, nghi ngờ Nguyễn Trãi; giết Trần Cao để dành chánh nghĩa; và dùng toàn
những người chỉ biết võ biền như Lê
Sát không đủ tài trị nước an dân mà được phong lên làm quan
Ðại Tư Ðồ.
Vì thế nên
sau khi chết thì ông Lê Sát
đương nhiên nhiếp chính vì vua mới có 11 tuổi.
2/- Vua Lê Thái Tông
(1434-1442) trị vì được 9 năm thì mất vì bị đầu độc, thọ 19 tuổi (lên ngôi lúc
11 tuổi). Coi thêm số 10: Việt Sử Khảo Luận của ông Hoàng Cơ Thụy
Trong 9 năm
trị vì : Việc học được mở mang, tiến sỹ được khắc tên vào bia đá bắt đầu
từ đây để tỏ lòng ái mộ nhân tài, là nhờ Quốc Sư Nguyễn Trãi còn được trọng
dụng.
Ø Nhưng sau
khi chết đi thì văn học xuống dốc vì triều thần đều là những tên xu nịnh cầm
quyền sinh quyền sát. Do đó nên Quốc Sư Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc để diệt
khẩu bởi đám loạn thần đầu độc vua để mình nhiếp chính.
Phép thi được
chia làm tứ trường như sau :
-
Ðệ nhất thi 1 bài kinh nghĩa, 4 bài tứ thư mỗi bài dài ít nhất là
300 chữ.
-
Ðệ nhị thi 1 bài chiếu, 1 bài chế và 1 bài biểu.
-
Ðệ tam thi làm thơ và phú.
-
Ðệ tứ đậu Tiến sỹ làm 1 bài văn sách dài tối thiểu là 1.000 chữ. Văn
sách là sách lược đấu tranh tỷ dụ đề ra là:
« Ngày
hôm nay, chúng ta phải làm gì và có thể làm được gì để chống nguy cơ Hán Hóa?»
Sỹ tử người
thì bảo hàng giặc, người thì bảo quyết chiến, kẻ nói triệu tập hội nghị toàn
dân để hỏi ý kiến, kẻ thì bảo lùi một bước tiến 5 bước, người thì bảo bày mưu
cho chúng xa bẫy rồi tổng phản công......Tùy tài hùng biện của sỹ tử mà cho đỗ
cao hay thấp là do cái nhìn của ban giám khảo tinh thông kim cổ hay đầu óc
bí-xì với tư tưởng vong nô hèn nhát.
Lợi dụng lúc
vua mới trưởng thành, háo sắc nên các quần thần đem con gái hiến vua làm cung
phi. Khi có con trai thì nịnh hay hót giởi nên được vua phong ngay cho làm Thái
Tử (tức chỉ định người nối ngôi). Bà sau đẻ con trai lại truất ngôi Thái Tử của
đứa con trước mà phong ngay cho người em cùng cha khác mẹ nên gây hận thù.
Rút cục năm
19 tuổi vua bị đầu độc chết ở Lệ-chi viên (vườn trồng cây vải), loạn thần vu vạ
cho Thị lộ rồi chu di tam tộc ông Nguyễn Trãi để bịt miệng.
Sau đó đứa
con 2 tuổi lên ngôi (tức vua Lê
Nhân Tôn), và ông nội của nó nhiếp chính. Sở dĩ đầu độc vua
là vì nhóm này sợ bà sau có con trai thì mình mất quyền. Ðó là nguyên nhân của
vụ án Lệ-chi viên (§14:Việt Sử Khảo Luận của ông Hoàng Cơ Thụy).
3/- Vua Lê Nhân Tôn lên ngôi lúc 2
tuổi, bị giết năm 19 tuổi và trị vì được 17 năm (1443-1459).
Ðây là thời
gian đại loạn, hoàng tộc sát hại lẫn nhau, người thì sang Tàu cầu cứu với tư tưởng
con vua thì lại làm vua nên chấp nhận làm vua nô lệ còn hơn làm dân một nước
huy hoàng.
Ø Vì vậy nên
thoái hóa đủ mọi mặt, tuy có một vài cải tổ chiếu lệ.
v
Bước ngoặt Tư Duy trái chiều
(biến dân chủ phân quyền thành quân chủ chuyên chế)
4/- Vua Lê Thánh Tôn, tức hoàng tử
Tư Thành (1460-1497):
Nhận xét về
535 năm tụt hậu! (1479-2014). Vị vua mà chúng ta vẫn ca tụng là anh minh, xuất
chúng mà đường lối học thuật lại sai lầm để đi đến thảm trạng ngày hôm nay với
nguyên nhân chính là: Tư Duy lạc hướng.
Thay vì đào
tại Hiền-tài cho đất nước thì lại đào tạo "tôi
trung cho nhà Lê" nên sau này trở thành bọn Ngu Trung và bọn Gian Thần
đã làm cản trở bước tiến của dân tộc từ đó đến nay.
Vị chi trên 5 thế kỷ dân Việt đi thụt lùi không
biết đến bao giờ mới thoát khỏi Tư Duy nô dịch từ 1479 đến nay (2014); tức tụt
hậu đã được 535 năm rồi, thật là kinh hãi!
Ø Ðó là nguyên nhân gây ra thảm trạng ngày
hôm nay, vì Tư Duy lạc hướng và Tư Tưởng lạc hậu nên con cháu gỡ mãi chưa được
vì người gỡ thì ít, ngu trung và gian thần thì nhiều.
Người gỡ là:
(1)
Mạc Ðặng Dung (hướng về
ngoại thương năm 1527),
(2)
Hoàng Ðế Quang Trung (hướng về Chính Học, lập Sùng Chính viện
1790).
(3)
Cố vấn Ngô Ðình Nhu (hướng về học thuyết Nhân Vị năm 1962)
là những lãnh tụ sáng giá đã nhìn
thấy cái sai lầm này nên đã đề ra chương trình Chính Học nhưng chưa thành thì chế
độ chết yểu vì những nguyên nhân khác nhau.
Khúc lịch sử
này chúng ta phải nghiền ngẫm cho thật kỹ và thật sâu thì mới hy vọng thoát
hiểm được.
Một thế hệ
làm chưa xong thì các thế hệ sau nối tiếp vì vạn sự khởi đầu nan, nhất là canh
tân Tư Tưởng và thay đổi Tư Duy để cập nhật với văn minh hiện đại là việc làm
rất khó, phải bền chí mới xong; còn không thì dân Việt sẽ tiêu vong trước
sự thi đua thăng tiến của các dân tộc khác theo đà tiến vọt của văn minh điện
tử, mà mình thì cứ đi thụt lùi!.
²
Xét lại
chuyện đã qua
Trở lại thời
điểm vua Lê Thánh Tôn
lên ngôi (1460); năm đó Ngài 18 tuổi, trị vì được 38 năm và thọ 56 tuổi
(1460-1497).
§
Trong thời gian trị vì, Ngài đã cải tổ được rất nhiều việc và
thành công trong việc chỉnh đốn lại rường cột quốc gia.
§
Về Văn học thì sửa đổi phép thi để tuyển chọn Trung Quân, còn ái quốc thì đã
có vua lo; tức biến quan niệm dân chủ phân quyền thành chế độ quân chủ toàn
trị.
Hoàng tử Tư
Thành và mẹ đã bị vua cha ra lệnh hành quyết về tội toan cướp ngôi, chỉ vì bà
mẹ của ông nói là nằm mê thấy Ðức Phật hiện ra và nói sau này con bà sẽ nối
nghiệp. Nhờ quốc sư Nguyễn Trãi hết lòng can thiệp nên mẹ con chỉ bị khai trừ
ra khỏi hoàng tộc và đưa vào chùa đề đi tu, xa lánh trần tục.
Ðến năm 18
tuổi (1460) bỗng dưng ngài được quần thần đem kiệu đến đón ông ở chùa về để tôn
lên làm vua trong lúc triều thần đang mưu hại nhau để tranh ngôi. Vua và bà
thái hậu vị giết trong cung bởi người anh cùng cha khác mẹ là Nghi Dân đã được
phong làm thái tử rồi; nhưng mẹ ông
Bàng Cơ ton hót để truất quyền Thái Tử và lưu đầy mẹ ông này.
Ðây là điểm
hy hữu nên cần phải mổ sẻ để xem nguyên nhân như thế nào, và hoàng tử Tư Thành đã
đòi yêu sách gì để tránh nạn kiêu binh?
Vì biến cố
trong triều, anh em giết hại nhau rồi sang Tàu cầu cứu, trong lúc giặc Chiêm đã
đánh chiếm Nghệ An và sắp đến Thanh Hóa đào mả vua Lê, đập tan lăng miếu nhà
Lê.
Vì thế cho
nên sau khi vua và thái hậu bị giết quần thần mới đem kiệu ra năn nỉ hoàng tử
Tư Thành lên làm vua....Nhưng hoàng tử Tư Thành ra điều kiện duy nhất là ông
phải có thực quyền.
Khi lên ngôi
thì miếu hiệu là Lê Thánh
Tôn, và thay đổi ngay chánh sách học vấn để tuyển chọn nhân
tài giúp vua cứu nước....Có nghĩa là dù vua làm sao thì cũng phải trung thành,
còn việc nước an dân là việc phụ.
Nền học vấn
này chuyển sang quan niệm: Ðất của Chúa lúa của trời thay cho quan niệm đất của dân và do
dân bảo vệ như thời nhà Lý, nhà Trần nên nhân tài đào tạo lúc đó không
những nhiều mà còn đều là các bậc hiền tài cả.
Ðã nhiều lần
các vị vua nhà Trần nói: Thiên Hạ là của chung, chia nhau mà hưởng; hàm ý là đất
Việt của dân Việt cùng làm và cùng hưởng.
Vì sợ thoán
nghịch nên việc học hành chuyên về Trung Quân; do đó hạ nhục đạo Phật, đạo Lão và các đạo
khác. Tuy việc học phát triển đào tạo được nhiều nhân tài Hồng hơn Chuyên như
Việt Cộng ngày hôm nay; nhưng về sau con cháu không đủ khả năng mà cứ khăng khăng
đòi làm vua Bù Nhìn để hưởng phú quý
Hậu quả của
sự thay đổi tư duy
Do đó bọn
ngu trung, nịnh thần mới có nơi kiếm ăn. Trung với nhà Lê nhưng lại đi làm quan
cho nhà Trịnh để họ Trịnh núp bóng vua Lê Bù Nhìn quản trị đất nước, bức bách nhà vua.
Ø Ðiểm này sẽ
nói vào mục nhà Lê Mạt
vận (1532-1788).
v
Nhà Mạc (1527-1592)
Nhà Lê nắm
quyền vừa tròn 100 năm tổng cộng 10 ông vua, trong đó chỉ có 2 ông đã lớn tuổi
mới lên ngôi là ông Lê
Thánh Tôn 19 tuổi và ông Lê Hiển Tôn 37 tuổi, còn lại toàn là ấu chúa
làm nhiều điều
bất nhân; do đó mới bị Mạc Ðăng Dung tuất phế.
Theo quan
niệm của dân Tàu (du-mục) thì đó là thoán nghịch. Còn theo quan niệm của dân
Việt (nông nghiệp) thì chuyện hưng phế là bình thường vì người dân làm chủ đất
nước chứ không phải triều đình giữ nước :
"Dân tộc vạn đại, nhà vua nhất thời"
Nếu vua bất
tài không đủ khả năng đem hạnh phúc đến cho dân thì đó là lúc nước lật thuyền;
do đó người dân ủng hộ Mạc Ðăng Dung để thay thế phế đế....đáng lý các hoàng tử
nên tự thoát vị như hoàng tử Lý Long Tường mới đúng. Ðằng này lại sẵng sàng ra
làm bung xung để Trịnh Nguyễn lợi dụng. May mà 2 Chúa tranh nhau nên hư vị vẫn
còn, bằng không thì giống vua Lê
Thái Tổ giết Trần Cao vậy.
Nay xét về
mặt học thuật thì nhà Mạc có tổ chức những khoa thi để tuyển nhân tài giúp dân,
trong đó có ông Nguyễn Bỉnh Khiêm người làng Trung-an, huyện Vĩnh-lại nay là
huyện Vĩnh-bảo tỉnh Hải Phòng đỗ Trạng Nguyên năm 1535, nên gọi là ông trạng
Trình. Danh tiếng vẫn còn truyền tụng cho tới ngày hôm nay.
²
Trịnh Nguyễn phân tranh đúng 256 năm (1532-1788)
với 10 trận chiến nướng trên 10 triệu thanh niên; đất nước
suy vi
Ðây là thời
kỳ dân Việt suy thoái, tự hủy bằng cuộc nội chiến dai dẳng và đẫm máu. Tiềm lực
bị tiêu hao, lòng dân ly tán....chỉ có lợi cho ngoại bang xâm lăng mà thôi,
không ngóc đầu lên nổi.
Sự học hành thì chúa Trịnh vẫn lo
tuyển chọn nhân tài theo đóm ăn tàn: Làm quan cho chúa Trịnh mà lại hãnh diện
là bề tôi trung thành với nhà Lê..thật là khó hiểu cái đám ngu trung, nịnh thần
này, trong đó có ông Lê Quý Ðôn, ông Nguyễn Du
và ông Nguyễn Thiếp nữa.
Ðàng trong thì Nguyễn Hoàng chỉ rình
đợi họ Trịnh hất cẳng vua Lê lập nên nhà Trịnh là kéo quân ra hỏi tội rồi xóa
luôn nhà Lê rồi lập nên nhà Nguyễn....
Ø
Sự học không có gì đáng nói vì không có thi cử. Tuyển người theo sự quen biết.
²
Nhà Tây Sơn
: 1778-1802
(coi thêm số
8: các ngôi sao Tây Sơn)
Trong lúc chiêu mộ nghĩa quân ở
chiến khu An Khê (khoảng 10 năm) thì anh em Tây Sơn có đón người về dạy võ và dạy văn cho
nghĩa quân với khẩu hiệu:
P Trừ gian, khử bạo, cứu nước an dân.
Khi đủ quân số thì chính thức phất cờ khởi nghĩa (1771) đánh Quy Nhơn
sau đó đánh chiếm Phú Yên (phía nam) và Quảng Ngãi (phía bắc) xong thì kêu gọi
hiền tài giúp sức với đường lối chánh trị:
P
Dùng văn tài
hòa với võ công để cứu nước an dân.
đồng thời biến nhân tài ngu trung của đối phương thành hiền tài cứu nước
an dân.
Tuy nhà Tây Sơn có tài khai dụng nhân tài đối phương thành hiền tài cứu
nước an dân nhưng việc thi cử vẫn chưa được tổ chức, mặc dù ông Nguyễn Nhạc đã
xưng Ðế vào năm 1778.
Ø
Chỉ vì chưa
ổn định chính trị xong nên việc khoa cử chưa có ai lo cả. Phải đợi mãi đến năm
1789 ông Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế kéo quân đại phá quân Tàu nhà Thanh,
thống nhất đất nước thì lòng người mới thuận về môt mối; và lúc đó mới lo đến
khoa cử để bổ xung hiền tài cho đất nước.
Ðiển hình là Hoàng Ðế Quang Trung có vời nhà hiền triết Nguyễn Thiếp ở La Sơn (Nghệ An) ra cộng tác với
Triều Tây Sơn nhưng Ngài không ra vì đã ăn lộc nhà Lê, cuối cùng Hoàng Ðế phải
viết thư úy lạo đại khái như sau:
" Làm tôi trung với vua, hiếu với dân là điều đáng kính nể và đáng
khuyến khích; nhưng nay nhà Lê đã suy vi không lý Ngài bỏ phí tài năng không ra
cứu dân giúp nước hay sao?
Triều Tây Sơn tồn tại hay suy vi thì không quan trọng bằng hạnh phúc của
người dân và an nguy của đất nước.
Vì thế nên Trẫm mong mỏi Ngài nghĩ lại mà xuất thế, khai trí cho dân vì
người dân giữ nước và tự bảo vệ quyền sống của mình chứ không phải nhà Tây Sơn
bố thí an bình cho họ.
Vì lý do này nên Trẫm ra chiếu thành lập Sùng Chính Viện với nhiệm vụ
phát huy Văn Hóa chính gốc để khai tâm và khai trí cho dân, mong Ngài nhận chức
Viện Trưởng với tước La Sơn
Tiên Sinh.
Ngài đã nói vì tuổi đời quá cao nên di chuyển khó khăn, vậy nay Trẫm ra
chiếu thành lập viện Sùng Chính ở ngay nơi Ngài cư ngụ; và đồng thời cũng chỉ định
Ngài làm chánh chủ khảo cho các kỳ thi hương để bày tỏ lòng kính trọng hiền tài
đất Bắc”.
w
Khi thống nhất đất nước xong (1788)
thì lo ngay việc khoa cử bằng chương trình Chính Học do ông Nguyễn Thiệp và ông Ngô Thì Nhiệm hợp
tác để phát huy chương trình Nhân VănViệt Tộc với mục đích học để có khả năng
tự bảo vệ lấy hạnh phúc của mình, còn nhà Tây Sơn sống hay chết là chuyện phụ.
Triều đình hưng phế là chuyện bình
thường, nhưng hạnh phúc của dân mới tối quan trọng vì Quan nhất thời, Dân vạn đại.
Chương trình này ở thời điểm đó rất
hay, nên học hỏi. Ðây là chương trình Việt học do ông Nguyễn Thiếp và ông Ngô Thì Nhiệm soạn
thảo rồi đệ trình để Hoàng Ðế phê chuẩn thực thi.
Vì nhà Nguyễn Gia Long đã đốt sạch sách
vở nên được truyền tụng như sau:
1. Chỉnh trang
lại Phật giáo để đối kháng với Ki-tô giáo. Ai thông thạo Phật học thì mới được
giữ chùa giảng kinh để mở rộng kiến thức cho dân.
Chùa do
chánh quyền cấp và trùng tu cho khang trang, còn nhà sư thì có ruộng tự trồng
trọt để tự túc mưu sinh. Phật tử đến học đạo thì chỉ mang hương hoa đến lễ Phật
chứ không được mang tiền đến cúng sư. Nói cách khác là phục hồi giáo lý nhà
Phật để chống Ki-tô giáo.
2. Cho Giáo Sỹ
Ki-tô được tự do giảng đạo để bắt liên lạc xem kỹ thuật Tây Phương tiến đến
đâu đặng còn biết đường canh tân đất nước.
Ðây là tự do
tôn giáo, theo hay không là tùy ở người dân. Nếu Phật Giáo được phát huy có hệ
thống thì ta sợ gì người dân đi theo đạo khác. Ngoài ra sự tiếp xúc với văn
minh Tây Phương là điều cần phải biết chứ không thể mũ ni che tai bịt mắt được.
3. Cưỡng bách
giáo dục: Quy chế trường ốc và nhà giáo:
Cấp tiểu
học:
Biến đình
làng thành lớp học, giáo viên cấp tiểu học dành cho thiếu nhi thì do nhà nước
chấp thuận, còn chi phí cho học hành và lương bổng giáo viên thì xuất quỹ của
làng để khuyến khích dân làng gia tăng sản xuất.
Cấp trung
học:
Lương bổng
giáo sư của cấp Trung Học
trở lên dành cho Thiếu Niên (trên 10 tuổi) , Tráng Niên (trên 16 tuổi) và Thanh Niên (trên 18 tuổi) thì chánh quyền
trả.
Cấp Ðại Học
Ai về kinh
theo học thày giỏi để thi ra làm quan thì có nội trú và thư viện để tra cứu.
Tóm lại:
Nhà Tây Sơn không những rất chú
trọng đến khoa cử để đào tạo hiền tài giúp nước an dân mà còn nghiêm túc với
chương trình giáo dục để huấn luyện người dân sao cho có đủ khả năng vươn lên
cùng người thì mới không sợ Tàu ăn hiếp hay Tây Dương cướp phá.
Nhờ chương trình học vấn này nên nhà
Lý và nhà Trần đã đào tạo được rất nhiều hiền tài còn vang vọng cho đến ngày
hôm nay.
Nay chúng ta
nên noi gương sáng này của tổ tiên để biết rằng tài năng dân Việt không thua
kém bất cứ dân tộc nào cả. Ngày hôm nay khủng hoảng hiền tài là vì sống
trong môi trường nô dịch nó đã kìm hãm nhân tài từ lâu lắm rồi.
Ø
Không biết Văn Hóa và Lịch Sử của tổ tiên ra sao
thì làm sao mà không vọng ngoại được?
v
Nhà Nguyễn
Gia Long (1802-1945)
Chúng ta phải nói ngay rằng trong
suốt thời gian này dân Việt không được quyền có tư duy độc lập và tư tưởng cứu
nước an dân; vì tất cả đã có nhà nước lo đầy đủ rồi.
Nhà vua nói: "Dân ngu nên không
được làm chánh trị. Việc này đã có nhà vua lo, dân đừng lo"
Nói chung thì khoa mục thời này là
huấn luyện làm tôi đòi ngoại chủng từ triều thần cho đến dân đen (tức là từ Gia
Long chủ trương nền giáo dục dân ngu khu đen, khu là bàn tọa ngồi lê nên đít thâm).
Vì Gia Long chỉ là giám quốc cho Tây (§15: Giao ước Versailles)
Tuy nhiên chúng ta cũng vẫn phải
thấu triệt chương trình học vấn rắc rối này. Muốn cho dễ nhớ thì phải chia ra
làm nhiều chương trình học vấn khác nhau cho từng miền của đất nước.
Miền Bắc:
Từ Ninh Bình trở lên đến ải Nam Quan
thì áp dụng chương trình của dân bị trị học hư văn dựa theo đạo Khổng đã bị nhà
Thanh khóa trong Tứ Khố Toàn Thư ở Bắc Kinh rồi, vì đối với Gia Long thì dân
Bắc là ngoại chủng nên theo luật riêng.
Tứ Khố Toàn Thư là 4 thư viện
chứa tất cả các sách quý xếp theo từng loại. Ðây là chiếu chỉ của nhà Thanh với
mục đích là tiêu diệt văn hóa của dân Tàu một cách im lặng.
Ðến thời Bảo Hộ (1883-1945)
thì bỏ chương trình hư văn mà dạy chương trình Pháp Văn với lý do là: Tiếng
Pháp là ngôn ngữ chánh, còn tiếng Việt là ngôn ngữ phụ. Con nít học tiếng Việt đến
năm 11 tuổi, sau đó là học toàn bằng tiếng Pháp, mù chữ chiếm 95% dân số.
Nước ta không có Bộ Quốc Gia Giáo
Dục mà chỉ có nha học chính trực thuộc bộ Giáo Dục ở Paris ra
chương trình tùy theo nhu cầu thâu nạp người giúp việc, môn học đắt khách nhất là
Thông Ngôn (gọi là ông Thông); phần còn lại là học Luật ra làm quan Huyện và
Cán Sự chuyên ngành; tức Technicien ( trợ tá chuyên môn).
Môn Việt Văn, Văn Hóa Việt, Lịch Sử
Việt hay Chánh Trị, Kinh Tế đều không được quyền học vì thế nên khi Nhật trao
trả độc lập (10/3/1945) thì người dân chẳng biết mô tê gì về chánh trị cả, lãnh
tụ thì tự học nên yếu kém. Do đó tên gian hùng Hồ Chí Minh mới phỗng tay trên
là nhờ y làm tôi trung cho đảng Cộng Sản Nga nên được ông chủ gửi ban cố vấn
sang để hết lòng tài trợ và chỉ đạo.
Miền Trung (1802-1945):
Nhà Nguyễn Gia Long coi miền Trung
là chiến khu an toàn bảo vệ ngai vàng nô dịch nên được nhiều quyền ưu đãi
(§16: luật Gia Long); do đó học thuật được chăm lo nhiều với mục đích học để
trung với vua nhưng ác với dân đặng còn đi thống trị dân Bắc Kỳ và dân Nam Kỳ.
Chương trình học này kéo dài tới năm
1884 thì hết, vì lúc đó miền Bắc do Pháp cai trị, miền nam là đất nhượng địa để
cứu nguy triều Nguyễn.
Từ năm 1885-1945 thì mọi việc đều do Khâm Sứ
Pháp ở Huế đảm trách, triều đình chỉ có vua bù nhìn và triều thần theo Tây nên
học theo chương trình Tây huấn luyện với mục đích làm cho dân
hèn nước
yếu....Giống chương trình giáo dục của Việt Cộng ngày hôm nay vậy; chỉ khác một
đàng là làm nô lệ cho Tây thì đây làm nô lệ cho Nga; Nga sập thì làm nô lệ cho
Tàu.
Ø Ðó là lý do tại sao dân ta đi mãi trong mê hồn
trận Dịch Chủ Tái Nô.
Miền Nam (1802-1864):
Ðây là đất
của các chúa Nguyễn khai khẩn đất bồi (tức đất phù nam: Ðất phù sa đang bồi ở
phía nam, tức đồng bằng sông Cửu Long) phần đông dân cư là người Tàu nhà Minh
sang tỵ nạn nhà Thanh nên không sõi tiếng Việt, do đó không có chương trình
giáo dục rõ ràng. Người Miền Nam ngày hôm nay phát âm theo Tàu như chữ
"con" thì phát âm thành "coon"; không phân biệt được dấu
ngã với dấu hỏi chỉ vì tiếng Việt có 6 âm mà tiếng Tàu chỉ có 4 âm mà thôi.
Cho đến năm
1864 thì Tự Ðức nhường đứt 3 tỉnh miền Ðông (Biên Hòa, Gia Ðịnh và Ðịnh Tường)
cho Pháp làm nhượng địa.
Ðến năm 1867
thì nhường nốt 3 tỉnh miền Tây (Vĩnh Long, Châu Ðốc và Hà Tiên) cho Pháp.
Ø Thế là từ năm
1867 trở đi, đồng bằng sông Cửu Long là đất thuộc Pháp nên theo học chương
trình Pháp để làm người Pháp nên không bàn tới.
----------------------------------
Nền giáo dục Quốc Cộng 1945-1975
Nền giáo dục
nước ta từ 1945-1975 rất phức tạp vì chiến cuộc triền miên do Hồ Chí Minh đem
tới bằng những hiệp định bán nước như:
Ø Tạm ước sơ
bộ 06/3/1946 mời quân Pháp vào nước để đổi lầy danh xưng vùng tự trị.
Ø Hiệp định
Fontainebleau 14/9/1946 công nhận Việt Nam là đất của nước Pháp.
Ø 19/12/1946:
Gây chiến với Pháp để nhân dân đừng hỏi tội bán nước của Hồ Chí Minh.
Ø 20/7/1954
theo lệnh của Chu Ân Lai
(thủ tướng chánh phủ Bắc Kinh), phái đoàn Hồ Chí Minh ký với Pháp hiệp định
Genève chia đôi đất nước.
Ø 1959 thành
lập Mặt Trận Giải Phóng dân Tộc để khủng bố dân miền Nam, phá hoại hòa bình.
Ø 1968: Tấn
công khu dân cư ngay ngày Tết Mậu Thân để gây kinh hoàng, thảm sát đồng bào Huế
trong 7 ngày hưu chiến đân dân ăn Tết trong thanh bình.
Ø 1972 Tấn
công Quảng Trị với chiến dịch "Mùa Hè Ðỏ Lửa".
Ø 30/4/1975:
Xua quân qua vùng phi quân sự để tấn công ồ ạt miền Nam. Bắt tù quân cán chính
và dân Miền Nam dưới mỹ từ: Trại Cảo Tạo và vùng Kinh Tế Mới để giết người
trong im lặng, do đó dân tộc mới điêu linh như vầy.
Ø Từ ngày được
gọi là "Giải Phóng" ra khỏi sự Tự Do No Ấm (30/4/1975), Việt Cộng còn
cố tình khơi căm thù bằng cách ăn mừng chiến tháng như: Cải Cách Ruộng Ðất;
Chiến thắng Mậu Thân ngay trong lòng nạn nhân. Trong khi đó lại hô hào xóa bỏ
hận thù!
A/- Phía
Việt Cộng (1945-1975):
Việt Cộng
theo chương trình nhồi sọ của Mạc Tư Khoa để biến con người thành công cụ sản
xuất cho lãnh tụ đảng Cộng Sản Ðệ Tam Quốc Tế ở Mạc Tư Khoa hưởng.
Năm 1989 bức
tường Bá Linh sụp kéo theo sự tan vỡ của khối Cộng Quốc Tế, Mạc Tư Khoa không
tồn tại thì Việt Cộng lại khấu tấu Bắc Kinh xin làm nô lệ với 16 chữ vàng
và 4 tốt (§17) nên chương trình giáo dục là xây dựng tư duy nô dịch Mác, Lê,
Mao với tư tưởng vọng ngoại, lỗi thời lạc hậu như ta đã biết (coi sách giáo
khoa Việt Cộng thì rõ)
²
B/- Phía
Quốc Gia: Chia làm 2 giai đoạn:
B1/-Từ
1948 đến 1954: Trước đó thì không có chủ quyền,
Pháp và Việt Cộng đang tranh bá đồ vương trên mảnh đất này, dân tình khổ sở
không có hướng đi; tương lai thì mù-mịt như nhà không nóc. Vì thế nên không có
chương trình Việt Học để đào tạo hiền tài cho tương lai.
Ngày 05/6/1948,
Quốc Trưởng Bảo Ðại đòi Pháp trao trả độc lập qua hiệp định vịnh Hạ Long, ký
trên chiến hạm của Pháp.
Ðến năm 1950
mới đủ sức để lo cho nền giáo dục độc lập dạy bằng tiếng Việt, mở thêm trường
Nguyễn Trãi. Còn Trưng Vương là trường nữ sinh khi trước mang tên Ðồng Khánh
dạy toàn tiếng Pháp; ngoài ra còn trường Chu Văn An khi trước là trường Bưởi dạy toàn tiếng
Pháp.
Vị chi là có
3 trường công lập dạy tiếng Việt đến hết Tú Tài phần 2 (tức lớp 12 ngày hôm
nay)
Lúc đó thiếu
giáo sư, nhất là môn Việt văn
phải đợi mãi đến năm 1953 mới có Ðại Học Văn Khoa do ông Nghiêm Toản làm khoa
trưởng để huấn luyện giáo sư Việt văn.
Vì vậy nên
lúc đầu thì chương trình tiếng Việt dựa theo chương trình của Pháp trước đó rồi
tu bổ dần dần cho hoàn chỉnh. Nhưng không
có môn Nhân Văn Việt Tộc, lịch sử chỉ học qua loa; văn hóa không học. Văn
Học chỉ có vài bài; tài liệu thì không có.
·
Trước đó, bài thi Tú Tài phần 2 phải gửi qua Pháp chấm vì ở Việt
Nam không có giáo sư đủ khả năng về khoa học để phê.
·
Ðến ngày 15 juillet 1951, vì nhu cầu thay thế quân đội Pháp
để tự bảo vệ đất nước chống bọn phiến Cộng được Tàu Cộng hà hơi tiếp sức, nên
Quốc Trưởng ký sắc lệnh Tổng Ðộng viên. Nhân tài đã thiếu lại còn đi lính nên
nền giáo dục bỏ lửng không người soạn thảo; vì thế nên không có gì đáng nói.
B2/- Từ 1954-1975:
Ngày 20/7/1954
hiệp định Genève chia cắt đất nước ra đời với sự thỏa thuận của Hồ Chí Minh và
Thực dân Pháp. Quốc Gia Việt Nam với Lãnh Tụ là Quốc Trưởng Bảo Ðại không ký.
Ø Dân Bắc di
cư ồ ạt vào Nam 1 triệu người và xây dựng phòng tuyến chống Cộng một cách quyết
liệt.
Ngày 26/10/56
nền Cộng Hòa ra đời với liên danh Tổng Thống và Phó Tổng Thống Ngô Ðình Diệm và
Nguyễn Ngọc Thơ.
Ðây là lúc
Tổng Thống lo cho việc học hành để đào tạo hiền tài cung ứng cho nhu cầu như:
-
Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt với chương trình học rất là chu đáo:
Bốn năm văn võ căn bản + 2 năm binh chủng chuyên nghiệp. Khóa sinh không được
lấy vợ trong khi đang học.
-
Trường Quốc Gia Hành Chánh đào tạo những bộ óc lãnh đạo đất nước
mà khi xưa gọi là "kẻ sỹ".
-
Còn trường Trung Học
và Ðại học thì mọc lên như nấm để cung ứng cho tinh thần hiếu học của dân.
Lúc này mới đủ
giáo sư có khả năng để phát triển nhân tài, là nhờ ở lứa tuổi theo học vào năm
1950-1954 từ Bắc di vô Nam tìm Tự Do. Tuy vậy, nhưng đây chỉ là những môn học
chuyên khoa cần cho nhu cầu sinh sống, chứ chưa có chương trình Nhân Văn Việt
Tộc cho toàn dân.
Tám nqam
sau, chương trình Việt học đã được nhà triết học Ngô Ðình Nhu soạn thảo và đem
ra áp dụng dưới tên là: Học thuyết Nhân Vị kèm thêm chữ Cần Lao cho rõ nghĩa
trong thí điểm Ấp Chiến Lược.
Ø Cần Lao Nhân Vị là tự mình
chuyên cần học hỏi để xây dựng vị thế của mình trong xã hội.
Tức là con
người phải có tinh thần Tự Trọng và Cầu
Tiến thì mới đủ khả năng để Tự Lực Tự Cường không nhờ vào
viện trợ của Mỹ nữa. Còn trông chờ ngoại bang tức trông chờ nô lệ, ít nhất là
tư tưởng vì có thực mới vực được Việt Ðạo.
Thực ra thì
tinh thần Tự Trọng và Cầu Tiến đã có từ ngày lập nước Văn Lang (2.879BC); nhưng chương trình giáo huấn thay đổi
tùy theo bối cảnh lịch sử.
·
Danh từ Văn Lang nói lên tinh thần Tự Trọng của con người Hào Hoa,
Phong Nhã; Phóng Khoáng, Hào Hiệp và Lịch Sự, Bặt Thiệp; đó là mục tiêu phải đạt
tới của con người Việt.
·
Danh từ Việt có nghĩa là hãy cố gắng vượt mọi khó khăn để thăng
tiến cùng người, tức tinh thần Cầu Tiến để thành người hữu dụng cho đời.
Hai danh từ
này đứng riêng một mình thì rất khó biết được là tổ tiên chúng ta muốn nói gì đây?
Nhưng sau khi giải mã được toàn bộ huyền thoại Rồng Tiên Khai Quốc, 100 trứng,
100 con thì thấy ngay là các ý nghĩa phải ăn khớp với nhau thì mới nói được
thông điệp cứu nước của Việt Vương
Câu Tiễn (600BC) về cách xây dựng Việt Giáo, Việt Ðạo, Việt
Triết và Học thuyết thoát hiểm (§1: Bài học số 6 chủ đề: Rồng Tiên Khai Quốc)
w
Từ 1975 - 2014 thì chúng ta đã rõ
chương trình
Nhân Văn Việt Tộc mới bắt đầu từ năm 2013
Trong nước thì toàn dân học giáo điều
Cộng Sản lấy dối trá làm đầu, sử thì học méo mó để phục vụ Ðảng Cộng Sản, không
đúng sự thật; rất nhiều đoạn bịa ra, không dám nói các cuộc chiến thắng Tàu
như: Bạch Ðằng (3 lần), Chi Lăng, Ðống Ða
Ở hải ngoại thì:
·
Chúng ta chỉ trông vào sự giáo dục của gia đình, các hội đoàn có
tổ chức những sinh hoạt văn hóa định kỳ nhưng lại chưa phân biệt được đâu là văn
hóa Việt gốc và đâu là văn hóa Việt Lai (Tây, Tàu, Mỹ, Nga .....).
Còn cha mẹ
không biết thì dù có thực tâm muốn con thành người Việt tốt cũng không biết lấy
tài liệu ở đâu.
·
Sách đấu tranh thì nhiều; nhưng sách Việt Học thì quá thiếu thốn
nên nhu cầu cố gắng soạn sách giáo khoa Việt Tộc là cần thiết trong lúc này.
KẾT LUẬN
Nhìn toàn cảnh học vấn để đào tạo
Hiền Tài giúp nước an dân từ ngày lập quốc đến nay thì chúng ta thấy ngay
nguyên nhân suy thoái Tư Duy để có thảm trạng ngày hôm nay là đầu óc hẹp hòi
của vua Lê Thái Tổ
chỉ nghĩ đến Ngai Vàng nên tin dùng toàn những người có Võ Công mà không cần đến
Văn Học thì làm sao quản trị được đất nước.
Trong thực tế:
Muốn bảo vệ an ninh lãnh thổ thì cần
Võ Công oanh liệt, muốn xây dựng đất nước thì cần Văn Tài ưu tú. Nếu Văn Võ
toàn tài thì tốt, còn không thì phải phối hợp với nhau để: Dùng Văn Trị hòa
nhịp với Võ Công thì đất nước và con người mới thăng tiến bằng người được.
Chú thích:
Văn Trị là dùng tài học để quản trị đất
nước, còn võ công là dùng sự thành công của võ nghệ để bảo vệ anh ninh bờ cõi.
Nay muốn vực dạy thì thiết nghĩ là:
1.
Chương trình giáo dục nhân văn Việt Tộc phải do chính người Việt
soạn.
2.
Xây dựng ban giảng sư có đủ khả năng sư phạm và kiến thức để đáp
ứng cho 90 triệu dân phải do chính dân Việt đào tạo.
3.
Cải thiện môi trường lừa dối bịp bợm và chụp dựt để xây dựng cuộc
sống lương thiện của người dân.
Ðó là những bước đi bắt buộc phải
qua. Nếu chúng ta khởi hành trễ thì sự Canh Tân Ðất Nước cho bằng người cũng
trễ theo……và có thể chẳng bao giờ dân tộc Việt tiến bằng người; mặc dù chúng ta
có rất nhiều nhân tài không thua kém bất cứ một dân tộc nào.
----------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét