Bài số 2.05
Công trình khẩn hoang của các chúa NGUYỄN
Soạn giả: Trần Vũ Khiêm (Anh Quốc)
Xong ngày 20 december 2013
Đôi lời giới thiệu:
Ban Tài
Liệu xin hân hạnh đuợc giới thiệu đến quý vị bài giảng về công trình mở mang bờ
cõi về phương
nam của soạn giả Trần Vũ Khiêm, dựa theo những tài liệu mà ông có trong tay.
Những bài
sử học dưới thời nô lệ Thực Dân Pháp đều bị bóp méo để nói rằng dân Việt sinh
ra để làm nô lệ cho người, hay dân Việt ác đức tiêu diệt dân Chăm (Champa), chiếm
đất của Khmer....nhưng sự thực thì ngược lại.
Ở đây
chúng ta không nói đến những lỗi lầm của Nguyễn Hoàng và Hậu Duệ của ông với quyết tâm
xây dựng nghiệp Đế trên xương máu của dân Việt và dân Chàm. Quyết tâm này đã bị
Hoàng Đế Bảo Đại xóa bỏ bằng hành động của Ngài như: Xóa bỏ tục lệ lạy Vua và
cung tần mỹ nữ.....,nhất là lấy vợ người Kitô giáo (chối bỏ miếu đường) và phong ngay
cho bả làm Hoàng Hậu để xóa bỏ tục Tứ Bất Lập là: Trạng Nguyên, Tể Tướng, Hoàng
Hậu và Thái Tử.
Đọc bài:
1. số 2.05: Công trình các chúa Nguyễn khai khẩn đất bồi
phương Nam mà chúng ta bổn phận phải bảo quản.
2. số 2.09: Chiêm và Việt, ai xâm lăng ai? Để biết dân
Việt là nạn nhân của vua Chiêm
Thì chúng ta sẽ thấy Việt và Chân Lạp đều là nạn
nhân của Đế Quốc Chiêm.
õ
Theo tài liệu Hải Dương
học của các trường Đại Học thì:
Ở thời điểm 1471, đồng bằng sông Cửu Long là đất
đang bồi, chưa ở được nên gọi là đất Phù Nam; tức đất bồi ở phương Nam, muốn
xây dựng thành đất đô thị hay xóm làng thì phải mất công khai phá. Người tá túc
trên đất này đều là những người đi biển tạm trú nên gọi là dân Côn Man hay Bồn Man...Tức dân ANH CHỊ. Côn
là Cây Gậy, còn Bồn là Cồn Đất
nhô trên mặt nước như vùng Cà Mau ngày hôm nay vậy. Man là thiếu Văn Hóa.
ü
Vì thế
cho nên không thể gọi đất này là đất của Chân Lạp được, mà cũng không thể gọi
là đất của dân Phù Nam được; mà làm gì có dân tộc Phù Nam, Côn Man hay Bồn Man.
Lý do là ở thời điểm
1471 thì:
1. Bờ biển chạy dài từ tỉnh Bình Thuận (Phan
Thiết) tới Phnom Penh và biển hồ Tonlé
Sap.
2. Người Chân Lạp sinh sống từ bờ biển Tonlé
Sap (Thủy Chân Lạp) lên đến vùng cao nguyên (Lục Chân Lạp; hay Hỏa Chân Lạp vì
tính nết nóng nảy), dân số chưa đầy 3 triệu người nên chưa đủ khả năng để khai
khẩn vùng đất bồi mà họ chưa cần tới.
3. Người Chiêm cũng không thiết khai khẩn
vùng đất bồi này, mà họ đem quân đi khống chế nước Đại Việt và nước Chân Lạp.
4. Năm 1471: Cá nằm chốc thớt; vua Lê Thánh
Tôn bị dao Chiêm kè cổ (coi bài 2.09 & 2.10) nên phản công tiến chiếm Quy
Nhơn (Bình Định) rồi sát nhập nước Chiêm vào nước Đại Việt bằng cách hội nhập
văn hóa của 2 sắc dân.
Vì muốn có cuộc sống hài hòa nên Ngài để cho vùng đất còn lại bằng 2/5
diện tích nước Chiêm, theo thể chế TỰ TRỊ không có Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại
Giao; vì đó là nước Đại Việt. Đó là vùng Hoa
Anh (Phú yên và Khánh Hòa); Chiêm
Thành (thành trì cuối cùng của người Chiêm là Ninh Thuận và Bình Thuận,
sau đó là biển); Nam Bàn (tức vùng Tây Nguyên ngày hôm nay). Vì lý do tâm lý
nên ta gọi là « nước» thay cho chữ vùng…Nếu là 3 nước độc lập thì họ đã kết
hợp thành một cho mạnh chứ, đâu có chịu yếu hèn như vậy?.
5.
Nước Đại Việt cũng
không có người để đi khai khẩn vùng đất bồi này.
Về sau, thời Trịnh
Nguyễn Tranh Hùng, vì nhu cầu sinh tồn của nghiệp Đế nên các chúa Nguyễn mới
dùng cường quyền xóa bỏ chế độ tự trị của 2 vùng Hoa Anh, Chiêm Thành và
buộc họ phải đi khai phá vùng đất bồi này. Vì vậy nên mới có sự chống đối, và
dân Chiêm bỏ vào tỵ nạn chánh trị ở vùng Nam Bàn, tổ chức lực lượng võ trang tự
vệ như kiểu Fulro ngày hôm nay.
Bắt không được thì
tha làm phúc; vì sợ già néo đứt dây nên chúa Nguyễn phải trả lại quy chế tự trị
cho vùng Chiêm Thành, mà chỉ thít thêm một tý bằng cách dụ đi khai khẩn đất bồi
thì được sung túc và tự do hơn là ở lại quê hương…giống y chang Việt Cộng bán
dân làm nô lệ dưới mỹ từ : Lấy chồng ngoại quốc (nô lệ tình dục hay bán
chôn nuôi miệng)….. Cộng tác Lao Động Quốc Tế (xuất cảng Lao Nô)….
Ø
Có điều nên nhớ là: Các chúa Nguyễn không đại diện cho dân Việt; bằng cớ là đại bộ
phận dân Việt đều ở Đàng Ngoài với vua Lê.
6.
Nước Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp (còn gọi là Hỏa
Chân Lạp) thành lập vào khoảng 450 năm sau tây lịch để chống lại sự xâm lăng của
nước Chiêm.
Đến năm 802–850 thì
hai nước hợp nhất với nhau, mang tên là Vương
Quốc ANGKOR và trở nên hùng mạnh vào thế kỷ thứ XI và XII…
Người ta bảo là Đế
Quốc ANGKOR xâm lăng nước Phù Nam là thiếu cơ sở; vì Phù Nam là đất bồi của
chung thiên hạ nên không có dân Phù Nam mà chỉ có dân tứ chiếng anh hùng (dân
dao búa) nên được gọi là dân Côn Man hay Bồn Man.
Hơn nữa dân Vương
Quốc ANGKOR chưa đầy 3 triệu người nên chưa đủ sức khai phá vùng đất bồi; thêm
vào đó thì họ cũng chưa có nhu cầu khai phá vùng đất bồi này.
Sau đó, không biết
vì lý do gì mà Vương Quốc ANGKOR tàn lụi và tiêu luôn. Người kế nghiệp chuyển
đô về Phnom Penh vào năm 1434. Chẳng biết có phải vì dân Chiêm tiến đánh hay
không, nhưng lúc này thì dân Chiêm rất mạnh và hung hăng, đó là thời Lê Lợi
(1428-1433), Lê Thái Tôn (1434-1442) và Lê Nhân Tôn (1443-1459)……
Ngay sau khi vua Lê
Thái Tôn băng hà, triều thần chém giết lẫn nhau thì năm 1446 (vua Lê Nhân Tôn mới
có 5 tuổi : Ấu chúa) quân Chiêm tiến đánh nước Đại Việt. Đó là lý do để
triều Thần giết vua và Thái Hậu đi; rồi mang kiệu ra ngoài rước vua Lê Thành
Tôn lên để lo chấn chỉnh việc nước.
Vua Lê Thánh Tôn
(1460-1497) lấy niên hiệu là Quang
Thuận (1460-1489) là thời kỳ chỉnh trang hàng ngũ, và Hồng Đức (1470-1497) rồi kéo
binh đi chinh phạt nước Chiêm của vua Trà Toàn; sát nhập nước Chiêm vào nước Đại
Việt và gọi là vùng đất Quảng Nam (từ đèo Hải Vân đến hết Bình Định), 2/5 diện
tích đất đai còn lại cho hưởng quy chế tự trị là vùng HOA ANH (Tuy Hòa và Khánh Hòa), vùng CHIÊM THÀNH (Ninh Thuận và
Bình Thuận) và vùng NAM BÀN (tức Tây
Nguyên ngày hôm nay.
Theo Hải Dương Học
thì Phù Nam là đất bồi (giống như mũi Cà Mau ngày hôm nay vậy), mà ta gọi là Đồng
Bằng sông Cửu Long.
Theo luật biển ngày hôm nay thì đây là thềm lục địa của 2 nước là Chiêm (Champa) và Chân Lạp
(Khmer), mỗi bên một nửa. Phía Đông thuộc nước Chiêm (phần đất thuộc tỉnh Bình
thuận). Phía Tây thuộc nước Chân Lạp (phần đất thuộc tỉnh Phnom Penh).
Theo luật thời đó thì là đất
hoang, vô chủ, ai khai phá thì người đó hưởng. Bằng cớ là Hà Tiên do Mạc Cửu,
thuyền nhân tỵ nạn chánh trị nhà Thanh sang cắm dùi (1680) và biến nơi sình lầy
thành đô thị cho các thương thuyền dừng chân du hí và trao đổi hàng hóa thì
chúa Nguyễn cũng chẳng nói gì; vua Xiêm La (Thái Lan) cũng chẳng nói gì; mà nhà
cầm quyền ở Phnom Penh cũng êm ru luôn.
Mãi tận về sau, khi
ăn nên làm ra thì quân cướp biển người Siam (Thái) và người Khmer mới đến quấy
nhiễu để phá đám nên các thương nhân không ai dám ghé bến nữa.Vì sợ thất thu
nên Mạc Cửu biếu Chúa Nguyễn mảnh đất này….Mà lúc đó Chúa chỉ cho mượn uy chứ
không có người để tiếp thu nên phong ngay cho Mạc Cửu làm Tổng Trấn Binh của Trấn
Hà Tiên (Trấn có nghĩa là tiền đồn).
õ
Đó là nói về công lao của các chúa Nguyễn để
chúng ta biết đường bảo vệ thành quả đã tạo được.
ü
Nhiệm vụ của chúng
ta là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ hiện có, đòi lại lãnh thổ và lãnh hải đã mất ;
vì thế cho nên chúng ta cần phải ăn ở làm sao để có cuộc sống hài hòa bằng cách
Hội Nhập Văn Hóa của các sắc tộc có mặt trên mảnh đất mang tên Việt Nam.
Còn về tội của Nguyễn Hoàng (phải nói là của Nguyễn
Kim mới đúng) là: Mưu đồ xây dựng nghiệp Đế trên xương máu dân Việt như Việt Cộng
ngày hôm nay; bất kể thiệt hại ra sao thì,
hiện bây giờ chúng ta chưa bàn đến tội trạng, vì
đây là loại con buôn chánh trị thì thời nào cũng có nên chúng ta sẽ bàn riêng
trong bài học số 10 (2.10): « Nguyên nhân suy thoái Tư Duy » thì mới
biết đường Canh tân Tư Tưởng được.
Chỉ vì dân ta suy thoái Tư Duy nên con buôn
chánh trị mới lợi dụng ; mà bắt đầu suy thoái từ thời vua Lê Thánh Tôn
(1460) với quan niệm « Đất của Chúa, lúa của trời »; do đó Nguyễn Kim và
Trịnh Kiểm mới dương ngọn cờ Phù Lê diệt Mạc mà có người theo.
Ngày hôm nay Việt Cộng cũng ngang nhiên
nói : Đảng trên nước, còn đảng thì còn nước mà người dân cũng lăn xả vào
chết cho đảng như : Quân Đội bảo vệ Đảng. Công An thì: Còn Đảng còn Ta.....
Hèn với giặc, ác với dân!
Vũ Việt Nhân
(Ban tài liệu)
õ
Bài này gồm
4 phần:
1. Phần Giáo
Khoa gồm:
a. Ôn Cố: Tóm lược những điểm chính của dòng lịch sử
b. Tri Tân: Chúng ta (người dân) phải làm gì để bảo vệ công
lao người xưa và để xây dựng xã hội hài hòa giữa các sắc tộc? Do đó phải đầu tư
trí tuệ để giải quyết vấn đề khó khăn trong thế hệ chúng ta (2014)
2. Phần Tham Luận
dành cho Giảng Viên hiểu rõ nguyên nhân của sự việc.
3. Phần Trau Dồi
Kiến Thức dành cho những ai muốn hiểu rộng thêm vấn đề
4. Phần Thực Tập
dùng để trắc nghiệm sự hiểu biết của mình bằng cách trả lời những câu hỏi
PHẦN 1: GIÁO KHOA
ÔN CỐ
Công Nghiệp Mở Nước
ồng Hới, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Bình
ố
10 (2.10): Nguyên nhân suy thoái Tư Duy, để biết cách thoát khỏi hiểm họa tiêu
vong dưới gót chân giặc Tàu.
ể có đủ khả
năng chống lại Đàng Ngoài.
ập Quốc vào năm 40 sau tây lịch thì
cương vực nước Chiêm bắt đầu từ đèo Ải Vân (Hải Vân ngày hôm nay) vào tới Bình
Thuận (tỉnh lỵ là Phan Thiết); lúc này đồng bằng sông Cửu Long
chưa có; trong khi đang bồi thì gọi là đất Phù Nam (tức đất bồi ở phương Nam). Khi
nước Ta bị nhà Đường thống trị, lợi dụng sự suy yếu này ( #800) quân Chiêm đánh
chiếm đến tận Bố Chánh thuộc tỉnh Quảng Bình ngày hôm nay.
Coi thêm bài số 9 (2.09) Chiêm Việt:
Ai xâm lăng ai?
ận và Bình Thuận) ất ở trên cao), tức Gia Lai (Pleiku), Đắc Lắc (Buôn Mê Thuột) và Lâm Đồng (Đà Lạt)
ất
đang bồi (tức là đất Phù Nam chứ không phải nước Phù Nam) không ở được. Dân đi biển tá túc ở đó được gọi là
dân Côn Man hay Bồn Man. Man là thiếu văn hóa, tức dân ANH CHỊ....CÔN là gậy, còn Bồn là cồn đất nổi trên mặt
nước.
Lúc này bờ biển
chạy từ Bình Thuận (Phan Thiết) tới tận Phnom Penh và biển hồ Tonlé Sap.... Đảo
Phú Quốc lúc đó cách xa bờ biển, phải khẩn hoang mới thành vùng đất sinh sống
được của dân Chài Lưới (VI ỆT).
Người Chân Lạp ở ven biển (miền xuôi) được gọi
là Thủy Chân Lạp, còn ở trên cao (mạn ngược) thì gọi là Lục Chân Lạp (hay Hỏa
Chân Lạp, vì tính nết nóng nảy như lửa)
ợc
hoàn
toàn tự do về việc tự trị; nhưng không được lập quân đội và không có quyền ngoại
giao để cầu cứu nhà Minh bên Tàu hay các nước khác trên thế giới...Do đó sự hội
nhập không có vấn đề đối kháng. Mọi người đều an vui làm ăn yên ổn, dưới sự
giám sát của Triều Đình Đại Việt.
õ
Thời kỳ Trịnh Nguyễn Phân Tranh, tuy phải chống lại quân chúa Trịnh từ phương Bắc, các chúa Nguyễnvẫn bắt đầu một công
cuộc mở mang bờ cõi nước Việt về phía Nam bắt đầu từ năm 1611.
Vào năm 1611
nầy biên giới phía Nam của VN mới đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa hai tỉnh Bình
Định và Phú Yên hiện nay). Còn lại là 3 vùng tự trị của
dân Chiêm như đã nói ở trên.
Lần lượt cai trị vùng đất thường gọi là Đàng
Trong (nửa nước phía Nam) có tất cả là 10 vị chúa Nguyễn, nhưng ở đây chỉ chú
trọng đến các vị Chúa có công mở nước từ Bình Định đến Cà Mau ngày nay.
õ
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên(chúa Sãi) 1613-1635:
Chuẩn bị
cho công cuộc mở rộng đất nước về phía nam
Năm
1602, Nguyễn Phúc Nguyên được cha là Nguyễn
Hoàng cho làm trấn thủ dinh Quảng Nam, một vùng “đất tốt, dân đông, sản vật
giàu có” và giữ vị trí “yết hầu của miền Thuận Quảng”.
Bối
cảnh chính trị- kinh tế thế giới và khu vực giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ
XVII đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để có thể khai thác và đánh thức nguồn
lực trong nước.
Tại vùng trấn nhậm, Nguyễn Phúc Nguyên đã mở rộng
quan hệ giao thương với nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong nước, xây dựng
Hội An thành thương cảng quốc tế phồn thịnh.
Trong
số các nước phương Đông, Nguyễn Phúc Nguyên đặc biệt quan tâm đến Nhật Bản.
Từ
năm 1593, nhà cầm quyền Nhật Bản là Mạc Phủ Toyotomi đã bắt đầu thi hành chính
sách Châu Ấn Thuyền (Shuinsen) tức là cấp giấy phép cho thuyền buôn mở rộng
quan hệ thông thương với các nước Đông Nam Á.
Từ
năm 1604 đến 1634 (tương đương với thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên được giao làm trấn
thủ dinh Quảng Nam từ 1602 và lên ngôi chúa từ 1613 đến 1635), Mạc Phủ đã cấp
331 giấy phép đến 19 cảng thuộc khu vực Đông Nam Á thì riêng cảng Hội An đã có
86 thuyền được cấp giấy phép nầy (chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu
vực Đông Nam Á.
Bên
cạnh thuyền buôn Nhật Bản, thuyền buôn Trung Hoa, Đông Nam Á và nhất là thuyền
buôn phương Tây cũng cập bến Hội An ngày một nhiều hơn và thường xuyên hơn.
Vì vậy, chúa Nguyễn Phúc Nguyên
trong thực tế phải được coi là người Việt Nam đầu tiên thực sự thành công trong
chiến lược mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài và thúc đẩy kinh tế hàng
hoá và đô thị trong nước phát triển lên một trình độ mới từ khi chưa kế vị ngôi
Chúa của Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng. Đây chính là tiềm lực căn bản cho việc mở
nước về phương Nam của các Chúa Nguyễn.
õ
Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) 1648-1687
Năm 1658,
vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom Reachea lên ngôi. Batom Reachea là con trưởng của quận chúa Ngọc
Vạn, tức Khmer lai Việt. Ngọc Vạn là con gái Nguyễn
Phúc Nguyên (chúa Sãi).
Đế đáp lại
ân tình này, vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng
năm và chánh thức chấp nhận chủ quyền người Việt trên mảnh đất đã khai hoang ở
Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa.
Tại khu vực
này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã phải cử một đội
quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.
Năm 1679 có các cựu quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây - Trung Quốc), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An
Bình là tổng binh châu Cao, Lôi,
Liêm (Quảng Đông - Trung Quốc) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở
làm dân Đại Việt. Chúa Nguyễn Phúc Tần nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho họ vào ở
đất Đông Phố (Gia Định). Những người này cùng với những lưu dân người Việt định cư trước đó đã chia nhau ở đất Đồng Nai, Biên Hòa, Mỹ Tho (Tiền Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương Tây, Nhật Bản, Chà Và đến buôn bán khá đông. Đây là những vị tổ sang lập
ra thành phố Chợ Lớn ngày nay.
Năm 1680, Mạc Cửu, một đại thần nhà Minh bên Tàu, người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp
ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang vùng tận
cùng của đất Phù Nam, là nơi chưa ai khai
phá để khai
khẩn và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên.
Lúc này chúa Nguyễn thiếu người và dân Chân Lạp chưa đầy 3 triệu nên
chưa ai nghĩ tới mở rộng bờ cõi cả, vì thế nên Mạc Cửu
ung dung mở rộng đất đai của mình gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc làm nơi
nghỉ chân của các thương thuyền; phần thì trao đổi hàng hóa cho nhau, phần thì
du hí lầu xanh hay sòng bạc.
Năm 1708, đang ăn nên làm ra thì giặc cướp Xiêm-La và Chân-Lạp đến quấy phá nên các
thương thuyền bỏ đi. Lúc này Mạc Cửu mới hiến đất cho Chúa Nguyễn để phục hồi lại
nền kinh tế suy sụp, mất nguồn lợi nhuận này là tiêu vong.
Vì thiếu người nênMạc Cửu
Chúa Nguyễn Phúc Chu (Minh Vương) 1691-1725
Vì cần đường thông thương với các châu mới khai
phá ở đất Phù Nam nên năm 1693
chúa Nguyễn đổi xứ Chiêm Thành (vùng tự trị từ năm 1471) làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn
giữ, nhưng bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành. ền tự trị
Tuy
nhiên, do sự kháng cự của người vùng Chiêm Thành và cũng cần tập trung cho việc
khai phá đất Nam bộ nên qua năm 1697,
chúa Nguyễn đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, và dành cho người Chăm cơ chế
tự trị như cũ; nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn…. Bắt không được thì
tha làm phúc.
Năm
1698
chúa Nguyễn Phúc Chu chia đất Đông Phố (Gia Định) ra làm dinh, làm huyện,
lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình.
Ông
đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phiên
Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào
cai trị.
Chúa
Nguyễn lại chiêu mộ thêm những người lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất,
những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn. Năm
1699
vua Ang Em của Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm chiếm đất này, nhưng bị
thất bại.
Chúa Nguyễn Phúc Chú 1725-1738
Từ
năm 1735 - 1739 Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng
Trong
Năm
1732,
chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre, dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) 1738-1765
Năm
1755,
biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) thông sứ với chúa Trịnh ở
ngoài Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, nên chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên.
Năm 1756, Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin
dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân An và Gò Công) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.
Năm
1757
Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp.
Về
sau, Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương
Phúc Du thừa thế
sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn (Outey II), con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ
ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long
(vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn.
Sau đó không lâu Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm,
Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn riêng Mạc Thiên Tứ, Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy
dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản, 5 phủ này về sau khi
Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã cắt trả về cho Cao Miên, ngày nay là 2 tỉnh Takéo và Kampot.
[Sáp nhập Tây Nguyên
Từ thời các chúa Nguyễn, các bộ lạc ở Tây Nguyên mà
mạnh nhất là bộ tộc người Gia Rai với các vị tiểu vương Thủy Xá, Hỏa Xá đã từng triều cống chính quyền
Đàng Trong, trước đây khu vực này là vùng độn giữa các nước Chiêm và Chân Lạp,
nó không thực sự thuộc về bên nào mà khi thì thuộc Chiêm, khi thì Chân Lạp, thậm
chí có lúc một phần thuộc về Ai Lao tùy thuộc vào sức mạnh từng
thời kỳ của các nước này.
Tuy nhiên vào năm 1830, vua Minh Mạng chánh thức sát nhập vùng đất Tây Nguyên
ngày nay và đưa vào bản đồ Đại Nam, mặc dù không hề có người Kinh sinh sống cũng
như quan lại cai trị. Tây Nguyên lúc đó được xem là vùng tự trị của Việt Nam.]
õ
Kinh tế Đàng Trong thời kỳ mở
nước về phương Nam
Do sự tác động từ sự du nhập của
khoa học kỹ thuật phương Tây, thủ công nghiệp Đàng Trong không chỉ phát triển về
quy mô mà còn xuất hiện nhiều ngành nghề mới.
Các
chúa Nguyễn ở
Đàng Trong xây dựng các công xưởng, quan xưởng theo truyền thống
từ thời nhà Lý. Các công xưởng, quan xưởng này nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động công
nghiệp, xây dựng và tiêu dùng của chính quyền. Làm việc tại công xưởng là những
thợ giỏi, khéo được huy động từ các địa phương theo chế độ thời gian dài, ngắn
khác nhau.
Đóng tàu, thuyền
Chúa Nguyễn lập những xưởng đóng tàu,
thuyền quy mô lớn, tiêu biểu nhất là xưởng ở Hà Mật có
400 người.Xưởng này đã sản xuất ra những loại thuyền có trọng tải lên tới 400 tấn.
Năm 1674, chúa Nguyễn có 133 thuyền từ các xưởng này, mỗi thuyền có thể chở được
64 người.
Đúc tiền
Việc đúc tiền ở Đàng Trong bắt đầu khá muộn, từ năm 1736 dưới thời Nguyễn Phúc Chú. Tiền được đúc tại Cục đúc tiền dù tốn kém nhưng
không thông dụng.
Năm
1746, Nguyễn Phúc Khoát mở Cục đúc tiền ở Lương quán, đúc tiền kẽm
Thiên minh thông bảo. Trong vòng 2 năm, nơi đây đã đúc 72.396 quan tiền.
Năm
1775, quân Trịnh vào đánh chiếm Phú Xuân đã gom các vật dụng bằng đồng của chúa Nguyễn ở
phía hữu trấn dinh để đúc tiền. Từ công thức: 100 cân đồng
+ 15,12 cân thiếc + 43,1 cân chì
đúc được 38 quan tiền.
Tổng cộng số tiền đúc năm 1776 là 30.362 quan.
Đúc súng
Chúa Nguyễn cho mở xưởng đúc súng từ năm 1631, hiện nay vẫn
còn di tích ở Huế.
Xưởng này có sự trợ giúp của người Bồ Đào Nha là Joao da Cruz. Tổng số thợ làm việc trong xưởng
là 80 người, từ hai xã Phan Xá, Hoàng Giang thuộc huyện Phong Lộc.
Để
đúc 1 khẩu đại bác cần 15 khối sắt,
10 cân gang và 10 quan tiền than. Nhờ xưởng đúc này, chúa Nguyễn có hơn 200 khẩu
súng vào năm 1642, tạo nên sức mạnh góp phần chống trả thành công những cuộc tiến công của chúa Trịnh.
Khai thác mỏ
Đàng Trong không có nhiều tài nguyên khoáng sản như Đàng Ngoài: không có mỏ đồng,
chỉ có một số mỏ sắt
và mỏ vàng. Mỏ sắt ở Phú Bài (huyện Phú Vang),
trang Điển Phúc thuộc Bố Chính. Các chúa Nguyễn kiểm soát chặt chẽ việc khai
thác vàng. Các quan ở ty Ngân tượng và Nội lệnh sử trông coi việc nấu vàng và thu
thuế.
Các ngành khác
Ngoài ra, các chúa Nguyễn còn có những công trường lớn, chiêu tập thợ các
ngành nghề như thợ mộc, thợ nề, thợ đá, thợ sơn...Những người thợ được phân thành các Ty theo
ngành nghề như Ty thợ chạm, Ty thợ may, Ty thợ thêu, Ty thợ tiện, Ty thợ sơn,
Ty thợ giày, Ty thợ đúc, Ty thợ lọng, Ty thợ thiếc...Nhìn chung trình độ của thợ
thủ công tại các công xưởng thế kỷ 18 đã cao hơn các thời kỳ trước.
Tiểu thủ công nghiệp
Nghề
làm gốm (đất nung) nổi
tiếng tại các làng Lộc Thượng, Phú Vinh (Quảng Nam), Mỹ Thiện (Quảng Ngãi). Nghề gốm được chuyên môn hóa, tạo ra nhiều sản
phẩm khá tinh xảo.
Nghề
dệt tạo ra các sản phẩm như lụa,
gấm, sa. Các làng xã thuộc Điện Bàn, Thăng Hoa thạo nghề dệt lụa và vóc, lĩnh, đoạn có màu hoa đẹp. Sản phẩm tơ tại đây là sản phẩm xuất khẩu chính của Đàng Trong sang Trung Quốc, Nhật Bản và châu Âu.
Vùng
Quảng Nam và Quảng Ngãi là hai trung tâm sản xuất đường, tạo ra các loại
đường trắng, mịn, tinh khiết và đường phổi, đường phèn nổi tiếng. Nghề làm đường ở Đàng Trong nổi tiếng hơn ở Đàng Ngoài và là một trong các mặt hàng xuất khẩu chính.
Ngoài
các nghề trên, trong nhân dân còn có nghề làm giấy
tại làng Đại Phú ở Quảng Bình, Đốc Sở ở Thừa Thiên; nghề dệt mã vĩ và nghề thêu ở
Quảng Xuyên huyện Hương Trà. Nhân dân thường tổ chức ra thành các tổ, hội nghề nghiệp.
Nông nghiệp Đàng Trong thời Lê
trung hưng
Nông nghiệp Đàng Trong phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp
của miền nam nước Đại Việt thời Lê trung hưng, dưới quyền cai quản thực sự của
chúa Nguyễn, trong khoảng thời gian từ 1600 đến 1777.
Chế độ ruộng đất
Từ năm 1558,
khi mới vào cai quản Thuận-Quảng, Nguyễn Hoàng chưa định ngạch thuế khóa cho ruộng đất nông nghiệp.
Từ
năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý việc thu thuế
đất này. Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các xã
để thu thuế.
Năm
1669,
Nguyễn Phúc Tần theo đề nghị của Vũ Phỉ Thừa, sai Hồ Quảng Đại đi
đo đạc ruộng đất ở các huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc.
Ruộng
đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công Đàng Trong chia làm “quân điền trang” và “quân đồn điền”
thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cấp ruộng này cho người thân
thích và công thần. Người thân thích nhà chúa được 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai
cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu.
Ruộng
đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần gấp 3
lần.
Ruộng
đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách kích thích sự
phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng nhiễm mặn, rừng
rú đều được cải tạo thành các làng xã mới. Ruộng đất tư ở vùng Thuận Quảng phân
tán, chủ yếu là loại vừa và nhỏ.
Chính
sách cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán vào nam khai phá đất mới đã tạo điều
kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Đồng thời, việc kiêm tính ruộng đất cũng
xảy ra ở vùng Nam Bộ mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn, có ruộng đất hàng
ngàn mẫu.
Thời
kỳ đầu, các chúa Nguyễn chưa nắm được số ruộng đất, thuế khóa còn nhẹ nên đời sống
nông dân khá cao. Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế.
Phép thu thuế của Đàng Trong không phải quá nặng, nhưng các quan lại coi việc
thu quá nhiều, hay phiền nhiễu nhân dân, truy xét rà soát nhiều và tham nhũng
khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề.
Sản xuất nông nghiệp
Từ đầu thế kỷ 17, Nam Bộ còn là vùng đất hoang vu. Từ khi khai phá vùng
này, các chúa Nguyễn có chính sách quan tâm đến nông nghiệp. Hàng loạt con sông
và kênh được đào vét ở Thuận Quảng, điển hình như kênh Trung Đan và Mai Xá.
Sang thế kỷ 18, những vùng đất hoang vu ở Nam Bộ đã trở thành ruộng phì nhiêu, ruộng tốt
bậc nhất Đại Việt.
Nghề
nông Đàng Trong đã tạo ra 26 giống lúa
nếp và 23 giống lúa tẻ. Ngoài ra, nông dân còn trồng khoai, ngô,
hạt bo bo (tức ý dĩ), vừng
(gọi là mè) và các cây ăn quả gồm mãng cầu (na), mít,
xoài, chuối; các loại rau.
Mỗi
vùng đều có đặc sản riêng như bí, dưa bở ở Bà Rịa, khoai lang và ngô ở Biên Hòa, lạc ở Gia Định, xoài ở Bình Định, hồ tiêu ở
Hà Tiên, mía ở Bình Thuận và Quảng Nam, măng cụt ở
Vĩnh Long và Biên Hòa, dâu ở
Thuận Hóa, Quảng Nam, bông ở
Quảng Ngãi, quế ở Quy Nhơn, Thăng Hoa, Điện Bàn.
TRI TÂN
Giải quyết
vấn nạn của dân tộc là việc làm của tất cả mọi hiền tài của đất nước, vì thế
nên Ban Học Vụ chỉ đưa ra ý kiến khơi
mào cho cuộc thảo luận về khúc lịch sử này mà thôi.
1. Chúng ta rút tỉa được gì
trong công tác khẩn hoang của các chúa Nguyễn, dưới danh từ quen tai là
« mở mang bờ cõi » về phương Nam?
2. Sau khi Việt Cộng ra đi,
chúng ta phải làm gì để giải quyết vấn nạn của đất nước do Việt Cộng để lại
như : Xung đột sắc tộc; Lòng người phân tán; Văn hóa suy đồi thảm bại;
Kinh tế phá sản?
3. Vấn đề nào là chủ chốt cần
phải giải quyết cấp kỳ ?
a. Canh Tân con người ;
b. Canh Tân đất nước hay
c. Đào tạo một đội ngũ Giáo Sư
có khả năng về Canh Tân Tư Tưởng để xây dựng con người Việt tốt như chương
trình của nhà Tây Sơn với sự cộng tác của La Sơn Phu Tử (hiệu danh do Hoàng Đế
Quang Trung tặng cho ông) và nhóm Ngô Thì Nhiệm ?
------------------------------------------------
PHẦN
2 : THAM LUẬN
Công Nghiệp Mở Nước Về Phương Nam Của Chúa Nguyễn
Đại Việt
quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo
ận và Bình Thận); ức Nam Bàn là vùng Tây Nguyên ngày hôm nay) ự trị, không có quân đội và ngoại giao; nhưng vì lý do chánh trị nên sách chép là 3 nước...gi ống như vua Trà Toàn bị chém đầu thì ta gọi là Tướng Trà Toàn để việc hội nhập nước Chiêm vào nước Đại Việt cho xuôi chèo, mát mái.
Thời kỳ Trịnh Nguyễn Phân Tranh, tuy phải chống lại quân chúa Trịnh từ phương Bắc, các chúa Nguyễnvẫn bắt đầu một công
cuộc mở mang bờ cõi nước Việt về phía Nam bắt đầu từ năm 1611.Vào năm 1611 nầy biên giới phía Nam của
VN mới đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa hai tỉnh Bình Định và Phú Yên hiện nay).
Lần lượt cai trị vùng đất thường gọi là Đàng
Trong (nửa nước phía Nam) có tất cả là 10 vị chúa Nguyễn, nhưng ở đây chỉ chú
trọng đến các vị Chúa có công mở nước từ Bình Định đến Cà Mau ngày nay.
Chúa Nguyễn Hoàng (Đoan Quận Công) 1600-1613
Trước thời Quang Trung, danh tướng kiệt
xuất về quyết tâm dựng nghiệp mở nước và phát triển đất nước là Đoan Quận Công
Nguyễn Hoàng, người quyết chí vào Nam dựng nghiệp theo lời cố vấn của Trạng
trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với hàng loạt những dự định lớn lao. Ông toàn tâm, toàn
ý chăm lo phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về mọi mặt, chuẩn bị những buớc
đi xa hơn cho các thế hệ con cháu. Lê Quý Đôn, đã ca ngợi như sau: “Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ nghiêm
minh, không ai dám lừa dối… chính sự khoan hoà, việc gì cũng thường làm ơn cho
dân, phép tắc công bằng, nghiêm giữ quân sĩ có kỷ luật, cấm cản kẻ hung bạo.
Quân dân hai xứ đều mến yêu kính phục; thay đổi phong tục xấu, ai ai cũng cám
ơn và mến đức. Chợ không có hai giá, trong dân gian không có trộm cướp, đêm
không phải đóng cổng; thuyền ngoại quốc đến buôn bán, việc giao dịch phân minh,
ai cũng cố gắng, toàn cõi nhân dân an cư lạc nghiệp. Hàng năm nộp thuế má để
giúp việc quân, việc nước, triều đình cũng được nhờ”.
Mục tiêu của Nguyễn Hoàng khi quyết định vào Nam dựng nghiệp là
xây dựng một vương triều độc lập với triều đại mục nát Lê-Trịnh và mở nước về
Nam. Tuy nhiên do điều kiện và hoàn cảnh lúc đó, ông phải hết sức kín đáo để
tránh mọi sự hoài nghi của chúa Trịnh. Trên danh nghĩa và cả trong thực tế,
Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê-Trịnh, vẫn làm tướng
tiên phong của Nam Triều đi đánh dẹp các dư đảng của nhà Mạc ở Sơn Nam, Hải
Dương, Sơn Tây, Thái Nguyên… Cuối năm 1600, sau khi quyết định trở về ở hẳn Thuận
Hoá, đẩy mạnh xây dựng chính quyền độc lập và không nghĩ đến việc quay trở về yết
kiến vua Lê nữa, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ hoà hiếu với chính quyền
Lê-Trịnh, hàng năm vẫn phải nộp thuế má và xin kết nghĩa thông gia với Trịnh
Tùng. Sự nghiệp xây dựng một vương triều độc lập của Nguyễn Hoàng tuy đã có cơ
sở bước đầu nhưng vẫn còn hết sức mong manh. Đây chính là điều ông trăn trở nhất
và cũng là sự uỷ thác cao nhất cho vị chúa Nguyễn thứ nhì là Nguyễn Phúc Nguyên
trước lúc qua đời.
Năm 1611, vua Po Nit của Champa tiến quân đánh tỉnh
Quảng Nam gây hấn cùng Đại Việt.Chúa
Nguyễn Hoàng phái tướng Văn Phong đem quân vào đánh nước Champa (Chiêm Thành) lấy một vùng đất lập ra phủ Phú Yên chia ra
làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc tỉnh Phú Yên.
Theo
sách Đại
Nam Thực Lục Tiền Biên thì chúa Nguyễn Hoàng di chúc lại cho con trai
là Nguyễn Phúc Nguyên và triều thần như sau: “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh
Giang] hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi Sơn ở Đèo Cả -
Phú Yên] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của
người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ
xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất
nầy để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) 1613-1635:
Chuẩn bị cho công cuộc mở nước sang vùng đất Phù Nam về sau
Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ 6 của chúa Nguyễn
Hoàng, sinh năm Quý Hợi– 1563. Thuở nhỏ Nguyễn Phúc Nguyên tỏ
ra thông minh, tài trí hơn người. Lớn lên ông càng bộc lộ tài năng kiệt xuất, ngày ngày thường cùng các tướng bàn luận việc
binh, tính toán được nhiều việc đại sự, nên Đoan Quận Công biết là có thể trao
phó nghiệp lớn cho Nguyên. Nguyễn Phúc Nguyên đã không phụ lòng tin của cha, thực hiện đầy
đủ và trọn vẹn tất cả những gì mà người cha- chúa Nguyễn Hoàng - trông đợi và uỷ
thác.
Thực
hiện di chúc của cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã từng bước ly khai hẳn với triều
đình Lê-Trịnh, không chịu nộp thuế, không về chầu triều đình. Việc Nguyễn Phúc
Nguyên tìm mọi cách tách Thuận Quảng ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Lê-Trịnh
không phải chỉ là hành động chia rẽ hay phong kiến của dòng họ Nguyễn, mà chính
là ước nguyện muốn thực thi những chính sách cai trị khác với đường lối chính
trị của Đàng Ngoài lúc đó đang theo xu hướng hoài cổ rập khuôn thời Lê sơ, kìm
hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan việc làm của chúa Nguyễn Phúc
Nguyên có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc.
Năm 1613
lên ngôi Chúa kế vị thì ngay năm sau, năm 1614, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cải
tổ quan chế và quân chế của Đàng Trong thành bộ máy hữu hiệu hơn Đàng ngoài.
Thuế khóa và nông chế cũng được chúa Nguyễn Phúc Nguyên quy định mới hơn.
Đầu năm sau, năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ,
huyện được ban hành.
Năm
1620, Nguyễn Phúc Nguyên lấy lý do chúa Trịnh vô cớ
gây chiến đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc nộp cống thuế cho chính quyền
Lê-Trịnh. Năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại
sắc phong của chúa Trịnh Tráng. Đây không chỉ là sự khẳng định dứt khoát chính
quyền chúa Nguyễn ở phía Nam là chính quyền độc lập, cắt đứt hẳn mọi quan hệ lệ
thuộc với chính quyền Lê-Trịnh ở phía Bắc, mà còn đánh dấu quá trình chuyển đổi
căn bản từ một chính quyền địa phương, mang nặng tính chất quân sự của nhà
Lê-Trịnh sang một chính quyền dân sự của chúa Nguyễn. Đặc biệt trong quan hệ đối
ngoại, chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa Nguyễn đầu tiên tự xưng là An Nam Quốc
vương, quan hệ với các nước trong tư thế của một quốc gia độc lập có chủ quyền.
GS Nhật là Kawamoto Kuniye cho rằng điều này đã “biểu lộ nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn Phúc Nguyên trước thời đại mới”.
Cải
cách hành chính của Nguyễn Phúc Nguyên là cải cách có ý nghĩa then chốt, đặt cơ
sở cho những bước tiến xa hơn và vững chắc hơn của triều đình chúa Nguyễn nói
riêng và đất nước về sau nói chung.
Năm 1602,
Nguyễn Phúc Nguyên được cha cho làm làm trấn thủ dinh Quảng Nam, một vùng “đất
tốt, dân đông, sản vật giàu có” và giữ vị trí “yết hầu của miền Thuận Quảng”. Bối
cảnh chính trị- kinh tế thế giới và khu vực giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ
XVII đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để có thể khai thác và đánh thức nguồn
lực trong nước.
Tại vùng trấn nhậm, Nguyễn Phúc Nguyên đã mở rộng
quan hệ giao thương với nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong nước, xây dựng
Hội An thành thương cảng quốc tế phồn thịnh.
Trong
số các nước phương Đông, Nguyễn Phúc Nguyên đặc biệt quan tâm đến Nhật Bản. Ông
không chỉ xúc tiến quan hệ giao thương với tư cách chính thức của vị đứng đầu
nhà nước An Nam (An Nam Quốc vương), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương
nhân đến sinh sống, buôn bán ở Hội An, mà còn cho con gái yêu quý của mình là
quận chúa Ngọc Liên sang làm dâu một gia đình thương nhân Nhật Bản ở Nagasaki để
thắt chặt quan hệ với giới đại thương Nhật. Người con rể của ông là Araki
Sotaro vốn thuộc dòng dõi Samurai ở Kumamoto đi thuyền mang cờ hiệu của công ty
Đông Ấn Hà Lan VOC đến cập cảng Hội An vào năm 1619. Theo sách Ngoại phiên thông thư (quyển 13, tr
87-88) thì cũng đúng vào năm đó chúa Nguyễn Phúc Nguyên quyết định gả con gái của
mình cho nhà lái buôn Nhật Bản tài ba này. Ít lâu sau cô đã theo người chồng Nhật
Bản về định cư ở Nagasaki. Cô công chúa họ Nguyễn có cuộc sống thật sự hạnh
phúc, đắc ý cùng chồng, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trên đất Nhật Bản.
Từ năm 1593,
nhà cầm quyền Nhật Bản là Mạc Phủ Toyotomi đã bắt đầu thi hành chính sách Châu Ấn
Thuyền (Shuinsen) tức là cấp giấy phép cho thuyền buôn mở rộng quan hệ thông
thương với các nước Đông Nam Á. Ngay sau đó không lâu, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên
đã cho mở rộng thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính không chỉ cho
riêng Đàng Trong mà còn cho toàn khu vực tương đương với Việt Nam và Đông Nam Á
ngày nay, đón nhiều nhất số thuyền buôn Nhật Bản được cấp giấy phép chính thức.
Theo nghiên cứu của GS. Iwao Seiichi thì từ năm 1604 đến 1634 (tương đương với
thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên được giao làm trấn thủ dinh Quảng Nam từ 1602 và lên
ngôi chúa từ 1613 đến 1635), Mạc Phủ đã cấp 331 giấy phép đến 19 cảng thuộc khu
vực Đông Nam Á thì riêng cảng Hội An đã có 86 thuyền được cấp giấy phép nầy
(chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á.
Bên
cạnh thuyền buôn Nhật Bản, thuyền buôn Trung Hoa, Đông Nam Á và nhất là thuyền
buôn phương Tây cũng cập bến Hội An ngày một nhiều hơn và thường xuyên hơn.
Giáo sĩ dòng Tên người Ý là Christoforo Borri nhận xét: “Chúa Đàng Trong [chúa Nguyễn Phúc Nguyên] không đóng cửa trước một quốc
gia nào, Ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan
cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hoá của họ”.
Trong bối cảnh giao lưu buôn bán quốc tế tấp nập và sôi động như vậy, thương cảng
Hội An vào những thập kỷ đầu thế kỷ XVII đã đột khởi trở thành một đô thị và hải
cảng quốc tế tiêu biểu ở khu vực châu Á.Christoforo Borri, sống tại thị trấn Nước
Mặn (nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) những năm 1618-1622, đã mô tả về
Hội An như sau: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi
có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam… Chúa Đàng Trong
xưa kia cho người Nhật người Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một
thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là
Faifo (Hội An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai
thành phố, một phố người Hoa và một phố người Nhật. Mỗi phố có một khu vực
riêng, có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Hoa có luật lệ
và phong tục của người Hoa và người Nhật cũng vậy”. Đây là sự phát triển trội vượt, một hiện tượng kinh
tế - xã hội hết sức độc đáo chưa từng xuất hiện trước đó, cũng không thấy lặp lại
ở bất cứ đô thị nào trên đất Việt Nam nhiều thế kỷ tiếp sau.
Công
ty Đông Ấn của Anh Quốc thì cho rằng: “Chúa Nguyễn Phúc Nguyên xây dựng Hội An
trở thành thương cảng quốc tế phồn thịnh thời bấy giờ”.
Vì
vậy, chúa Nguyễn Phúc Nguyên trong thực tế phải được coi là người Việt Nam đầu
tiên thực sự thành công trong chiến lược mở rộng quan hệ giao thương với nước
ngoài và thúc đẩy kinh tế hàng hoá và đô thị trong nước phát triển lên một
trình độ mới từ khi chưa kế vị ngôi Chúa của Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng. Đây
chính là tiềm lực căn bản cho việc mở nước về phương Nam của các Chúa Nguyễn.
õ
Trong
thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất
làm ruộng ở vùng đất ngày nay là Bà Rịa, Đồng Nai, Sài Gòn vốn là đất của thủy Chân Lạp, nhưng không gặp phản kháng gì đặc biệt.
Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền
Vương) 1648-1687
Năm
1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm (Po Nraop) tiến quân sang đánh phá vùng
Phú Yên nhằm dành lại đất nầy. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc đánh sang nước Chiêm. Bà Tấm
xin hàng, chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông
Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái
thú.Như vậy đã mở nước thêm được tỉnh Khánh Hòa ngày nay sau tỉnh Phú Yên 40
năm.
Năm
1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành
ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom
Reachea (con trưởng của quận chúa Ngọc Vạn) lên ngôi, đáp lại vị vua mới của
Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt
được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa. Tại khu vực
này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã phải cử một đội
quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.
Năm 1679 có các cựu quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây - Trung Quốc), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An
Bình là tổng binh châu Cao, Lôi,
Liêm (Quảng Đông - Trung Quốc) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở
làm dân Đại Việt. Chúa Nguyễn Phúc Tần nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho họ vào ở
đất Đông Phố (Gia Định). Những người này cùng với những lưu dân người Việt định cư trước đó đã chia nhau ở đất Đồng Nai, Biên Hòa, Mỹ Tho (Tiền Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương Tây, Nhật Bản, Chà Và đến buôn bán khá đông. Đây là những vị tổ sang lập
ra thành phố Chợ Lớn ngày nay.
Năm 1680, Mạc Cửu, một đại thần nhà Minh bên Tàu, người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp
ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang vùng thuỷ Chân Lạp năm khai khẩn và cai
quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên, Mạc Cửu mở rộng đất đai của mình gồm
vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc khi đó đang thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được.Sau này,
mãi đến năm 1708 Mạc Cửu
Chúa Nguyễn Phúc Chu (Minh Vương) 1691-1725
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh (Po Saot) bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn
là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc
về Phú Xuân (Huế).
Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn
giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành.
Tuy
nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá
đất Nam bộ của Chân Lạp nên qua năm 1697,
chúa Nguyễn đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự
trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. (Đến năm 1832
sau này, vua Minh Mạng xóa bỏ cơ chế tự trị trên và lập thành tỉnh Bình Thuận).
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất thuỷ Chân Lạp. Ông chia đất Đông
Phố (Gia Định) ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài
Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập
làm xã Thanh Hà, và Phiên Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã
Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ thêm những người
lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất,
những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn. Năm
1699
vua Ang Em của Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm giành lại nhưng bị thất
bại.
Năm 1708 để tránh áp lực thường xuyên của quân nước Xiêm La (Thái Lan ngày nay) sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội
thuộc về chúa Nguyễn Phúc Chu, chúa Nguyễn đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong
cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà
Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.
Chúa Nguyễn Phúc Chú 1725-1738
Từ năm 1735 - 1739 Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình
sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng
Trong
Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm vùng đất ngày nay
là Vĩnh Long, Bến Tre, dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) 1738-1765
Năm 1755, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) thông sứ với chúa Trịnh ở
ngoài Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1756, Nặc Nguyên thua bỏ
thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn
và Lôi Lạp (nay là Tân An và Gò Công) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.
Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp. Về sau, Nặc Nhuận
bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương
Phúc Du thừa thế
sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn (Outey II), con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ
ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long
(vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn.
Sau đó không lâu Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm,
Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn riêng Mạc Thiên Tứ, Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy
dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản, 5 phủ này về sau khi
Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã cắt trả về cho Cao Miên, ngày nay là 2 tỉnh Takéo và Kampot.
Đất
miền nam Việt Nam bây giờ thì trước đó là đất của Chân Lạp, tuy nhiên trước đó
thì Chân Lạp lại là kẻ chiếm đất của Phù Nam đã từng tồn tại từ khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 tại đồng bằng sông Mekong.
[Sáp
nhập Tây Nguyên
Từ thời các chúa Nguyễn, các bộ lạc ở Tây Nguyên
mà mạnh nhất là bộ tộc người Gia Rai với các vị tiểu vương Thủy Xá, Hỏa Xá đã từng triều cống chính quyền
Đàng Trong, trước đây khu vực này là vùng độn giữa các nước Chiêm Thành và Chân
Lạp, nó không thực sự thuộc về bên nào mà khi thì thuộc Champa, khi thì Chân Lạp,
thậm chí có lúc một phần thuộc về Ai Lao tùy thuộc vào sức mạnh từng
thời kỳ của các nước này.
Tuy vào năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng đất Tây Nguyên ngày nay và đưa vào bản đồ Đại
Nam, mặc dù không hề có người Kinh sinh sống cũng như quan lại cai trị. Tây
Nguyên lúc đó được xem là vùng tự trị của Việt Nam.]
Kinh tế Đàng Trong thời
mở nước về phương Nam
Do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây, thủ công
nghiệp Đàng Trong không chỉ phát triển về quy mô mà còn xuất hiện nhiều ngành
nghề mới.
Các chúa Nguyễn ở
Đàng Trong xây dựng các công xưởng, quan xưởng theo truyền thống
từ thời nhà Lý. Các công xưởng, quan xưởng này nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động công
nghiệp, xây dựng và tiêu dùng của chính quyền. Làm việc tại công xưởng là những
thợ giỏi, khéo được huy động từ các địa phương theo chế độ thời gian dài, ngắn
khác nhau.
Đóng tàu, thuyền
Chúa Nguyễn lập những xưởng đóng tàu,
thuyền quy mô lớn, tiêu biểu nhất là xưởng ở Hà Mật có
400 người.Xưởng này đã sản xuất ra những loại thuyền có trọng tải lên tới 400 tấn.
Năm 1674, chúa Nguyễn có 133 thuyền
từ các xưởng này, mỗi thuyền có thể chở được 64 người.
Đúc tiền
Việc đúc tiền ở Đàng Trong bắt đầu khá muộn, từ năm 1736 dưới thời Nguyễn Phúc Chú. Tiền được đúc tại Cục đúc tiền dù tốn kém nhưng
không thông dụng.
Năm 1746, Nguyễn Phúc Khoát mở Cục đúc tiền ở Lương quán, đúc tiền kẽm
Thiên minh thông bảo. Trong vòng 2 năm, nơi đây đã đúc 72.396 quan tiền.
Lúc
đầu chất lượng tiền được đảm bảo, nhưng sau đó do nhu cầu tiền lên cao, nhiều
nhà giàu tranh nhau mở lò đúc, làm giảm chất lượng, nhiều tiền trộn chì, mỏng
và dễ gãy. Vì vậy dân bỏ tiền đó đi không tiêu nữa.
Năm 1775, quân Trịnh vào đánh chiếm Phú Xuân đã gom các vật dụng bằng đồng của chúa Nguyễn ở
phía hữu trấn dinh để đúc tiền. Từ công thức: 100 cânđồng
+ 15,12 cân thiếc + 43,1 cân chì
đúc được 38 quan tiền.
Tổng cộng số tiền đúc năm 1776 là 30.362 quan.
Đúc súng
Chúa Nguyễn cho mở xưởng đúc súng từ năm 1631, hiện nay vẫn còn di tích ở Huế.
Xưởng này có sự trợ giúp của người Bồ Đào Nha là Joao da Cruz. Tổng số thợ làm việc trong xưởng
là 80 người, từ hai xã Phan Xá, Hoàng Giang thuộc huyện Phong Lộc.
Để
đúc 1 khẩu đại bác cần 15 khối sắt,
10 cân gang và 10 quan tiền than. Nhờ xưởng đúc này, chúa Nguyễn có hơn 200 khẩu
súng vào năm 1642, tạo nên sức mạnh góp phần chống trả thành công những cuộc tiến công của chúa Trịnh.
Khai thác mỏ
Đàng Trong không có nhiều tài nguyên khoáng sản như Đàng Ngoài: không có mỏ đồng,
chỉ có một số mỏ sắt
và mỏ vàng. Mỏ sắt ở Phú Bài (huyện Phú Vang),
trang Điển Phúc thuộc Bố Chính.
Các
chúa Nguyễn kiểm soát chặt chẽ việc khai thác vàng.
Các quan ở ty Ngân tượng và Nội lệnh sử trông coi việc nấu vàng và thu thuế.
Ngoài ra, còn cho phép các hộ tư nhân đãi vàng, gọi là thực kim hộ. Những vùng
có vàng thì dân tập trung khai thác và đãi vàng,
được miễn suất đi lính. Những hộ này phải nộp thuế, nếu không nộp bằng vàng thì
nộp theo giá vàng là 4 quan tiền.
Ban
đầu, Đàng Trong chưa có những nơi khác thác vàng tập trung. Vào cuối thế kỷ 18,
tại Đàng Trong mới xuất hiện một số nơi khai thác vàng tập trung như ở nguồn Thu Bồn thuộc huyện Duy Xuyên (Thăng Hoa) và 4 ngọn núi ở
xã Nam Phố huyện Phú Vang.
Các ngành khác
Ngoài ra,
các chúa Nguyễn còn có những công trường lớn, chiêu tập thợ các
ngành nghề như thợ mộc, thợ nề, thợ đá, thợ sơn...Những người thợ được phân thành các Ty theo
ngành nghề như Ty thợ chạm, Ty thợ may, Ty thợ thêu, Ty thợ tiện, Ty thợ sơn,
Ty thợ giày, Ty thợ đúc, Ty thợ lọng, Ty thợ thiếc...Nhìn chung trình độ của thợ
thủ công tại các công xưởng thế kỷ 18 đã cao hơn các thời kỳ trước.
Tiểu thủ công nghiệp
Nghề
làm gốm nổi tiếng tại các làng Lộc Thượng, Phú Vinh (Quảng Nam), Mỹ Thiện (Quảng Ngãi). Nghề gốm được chuyên môn hóa, tạo ra nhiều sản
phẩm khá tinh xảo.
Nghề
dệt tạo ra các sản phẩm như lụa,
gấm, sa. Các làng xã thuộc Điện Bàn, Thăng Hoa thạo nghề dệt lụa và vóc, lĩnh, đoạn có màu hoa đẹp. Sản phẩm tơ tại đây là sản phẩm xuất khẩu chính của Đàng Trong sang Trung Quốc, Nhật Bản và châu Âu.
Phú Xuân có nghề dệt gấm chuyên cung cấp cho chúa Nguyễn. Tại hai xã Vũ Xá và Bình Xá ở huyện Lệ Thủy cũng có nghề dệt lụa lâu đời. Tuy nhiên, các sản
phẩm đều được làm thủ công và những người thợ làm nghề chỉ coi là nghề phụ nên
số lượng sản phẩm không nhiều.
Vùng
Quảng Nam và Quảng Ngãi là hai trung tâm sản xuất đường, tạo ra các loại
đường trắng, mịn, tinh khiết và đường phổi, đường phèn nổi tiếng. Nghề làm đường ở Đàng Trongnổi tiếng hơn ở Đàng Ngoài và là một trong các mặt hàng xuất khẩu chính.
Ngoài
các nghề trên, trong nhân dân còn có nghề làm giấy
tại làng Đại Phú ở Quảng Bình, Đốc Sở ở Thừa Thiên; nghề dệt mã vĩ và nghề thêu ở
Quảng Xuyên huyện Hương Trà. Nhân dân thường tổ chức ra thành các tổ, hội nghề nghiệp.
Nông nghiệp Đàng Trong
thời Lê trung hưng
Nông nghiệpĐàng Trong phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp
của miền nam nước Đại Việt thời Lê trung hưng, dưới quyền cai quản thực sự của
chúa Nguyễn, trong khoảng thời gian từ 1600 đến 1777.
Chế độ ruộng đất
Từ năm 1558, khi mới vào cai quản Thuận-Quảng, Nguyễn Hoàng chưa định ngạch thuế khóa cho ruộng đất nông nghiệp.
Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý việc thu thuế
đất này. Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các xã
để thu thuế.
Năm 1669, Nguyễn Phúc Tần theo đề nghị của Vũ Phỉ Thừa, sai Hồ Quảng Đại đi
đo đạc ruộng đất ở các huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc.
Ruộng
đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công Đàng Trong chia làm “quân điền trang” và “quan đồn điền”
thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cấp ruộng này cho người thân
thích và công thần. Người thân thích nhà chúa được 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai
cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu.
Ruộng
đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần gấp 3
lần.
Ruộng
đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách kích thích sự
phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng nhiễm mặn, rừng
rú đều được cải tạo thành các làng xã mới. Ruộng đất tư ở vùng Thuận Quảng phân
tán, chủ yếu là loại vừa và nhỏ.
Chính
sách cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán vào nam khai phá đất mới đã tạo điều
kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Đồng thời, việc kiêm tính ruộng đất cũng
xảy ra ở vùng Nam Bộ mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn, có ruộng đất hàng
ngàn mẫu.
Thời
kỳ đầu, các chúa Nguyễn chưa nắm được số ruộng đất, thuế khóa còn nhẹ nên đời sống
nông dân khá cao. Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế.
Phép thu thuế của Đàng Trong không phải quá nặng, nhưng các quan lại coi việc
thu quá nhiều, hay phiền nhiễu nhân dân, truy xét rà soát nhiều và tham nhũng
khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề.
Sản xuất nông nghiệp
Từ đầu thế kỷ 17, Nam Bộ còn là vùng đất hoang vu. Từ khi khai phá vùng
này, các chúa Nguyễn có chính sách quan tâm đến nông nghiệp. Hàng loạt con sông
và kênh được đào vét ở Thuận Quảng, điển hình như kênh Trung Đan và Mai Xá.
Sang thế kỷ 18, những vùng đất hoang vu ở Nam Bộ đã trở thành ruộng phì nhiêu, ruộng tốt
bậc nhất Đại Việt.
Nghề
nông Đàng Trong đã tạo ra 26 giống lúa
nếp và 23 giống lúa tẻ. Ngoài ra, nông dân còn trồng khoai, ngô,
hạt bo bo (tức ý dĩ), vừng
(gọi là mè) và các cây ăn quả gồm mãng cầu (na), mít,
xoài, chuối; các loại rau.
Mỗi
vùng đều có đặc sản riêng như bí, dưa bở ở Bà Rịa, khoai lang và ngô ở Biên Hòa, lạc ở Gia Định, xoài ở Bình Định, hồ tiêu ở
Hà Tiên, mía ở Bình Thuận và Quảng Nam, măng cụt ở
Vĩnh Long và Biên Hòa, dâu ở
Thuận Hóa, Quảng Nam, bông ở
Quảng Ngãi, quế ở Quy Nhơn, Thăng Hoa, Điện Bàn.
Lịch sử hình thành của
miền nam Việt Nam
Võ Thanh Liêm
I.
Vương quốc
cổ Phù-Nam
Vùng đất
trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc
Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có
nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi
tên nước này là ‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình
thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau
Công nguyên. Chúng ta có thể khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại
vùng đất này rất lâu trước khi vương quốc được thành lập.
Lịch sử bắt
đầu từ khoảng năm thứ nhứt sau Công nguyên khi tại châu Âu, Ðại Ðế Claudius ra
sức chinh phục đất Anh Cát Lợi và tại Trung Hoa là nhà Tây Hán. Theo truyền
thuyết thì ngày xưa có một vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên là Kaundinya
được thần linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc hành
trình đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng sông
Cửu Long. Bỗng từ đất liền xuất hiện một mỹ nhân trên chiếc thuyền nan bơi ra
chặn thuyền của Kaundinya lại. Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con gái
của vua Rắn Hổ mười đầu. Trận thư hùng diễn ra giữa anh hùng và giai nhân. Nhờ
phép thuật thần thông nên Kaundinya thắng trận. Nữ chúa Soma cầu hòa. Sau đó
không lâu hai người yêu rồi cưới nhau sinh ra một người con trai. Người con
trai này trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Phù-Nam lấy hiệu là Kampu.
Kinh đô
trù phú của vương quốc được xây dựng tại thành Vyadhapura. Hầu hết những
dữ kiện liên quan đến vương quốc cổ nhất Ðông Nam Á này đều đến từ sử liệu
Trung Hoa và di vật khai quật được ở Óc-Eo. Chính vì thế tên các vương triều
thường là do phiên âm ra tiếng Hán. Vào năm 245 sau Công nguyên nhà Hán Trung
Hoa sai sứ giả là K’ang T’ai đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Ông
đã mô tả là vương quốc này đã biết cách luyện kim, kinh đô Vyadhapura
có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh, có hệ thống kinh đào để thuyền bè
có thể đi xuyên qua lãnh thổ. K’ang T’ai cũng nói rằng vương quốc Phù Nam có
thư viện với nhiều sách vở chữ Phạn, có luật lệ, hệ thống thâu thuế và nông
nghiệp, thương mãi đều phát triển. Thường thì người Hoa có tục lệ khinh khi những
dân tộc không phải là Hán tộc. K’ang T’ai đã kết luận rằng người Phù Nam là một
dân tộc man di, nước da đen đúa xấu xí, tóc quăn và đa số ở truồng, đi chân
không. Ông sứ giả có than phiền điều này với quốc vương Phù Nam là vua Hun
Fan Huang. Nhà vua sau đó ra lệnh cho tất cả thần dân của Ngài về sau
phải quấn vải vào phần dưới thân thể, tiền thân của chiếc sà-rong mà người
Thái, Miên và Mã Lai thường mặc ngày nay.
Những lời
kể lại của thương nhân các nơi khác lại tỏ ra thán phục nền văn minh và sự hùng
cường của Phù Nam. Họ kể rằng giới quí tộc Phù Nam ăn mặc diêm dúa, ở cung điện
nguy nga bật nhất và nước Phù Nam có rất nhiều đồ châu bảo vàng bạc quí giá.
Vương quốc sử dụng chữ Phạn cổ Sanscrit của Ấn Ðộ trong công việc hành chánh và
thương mãi. Trong vòng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù Nam đã có một hạm đội chiến
thuyền và quân lực hùng mạnh. Vương quốc Phù Nam đã chinh phục được hầu như
toàn thể những khu dân cư của vùng Mã Lai -Thái lan - Miên và nam Miến Ðiện để
kiểm soát đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Ðộ.
Hào quang cường thịnh và cách tổ chức hành chánh của Phù Nam đã làm gương mẫu
cho những nền văn minh sau này như là tiểu vương quốc Sri Vijaya (Palembang),
Sailendra ở Java Indonesia, và Malacca góp phần truyền bá văn minh Ấn Ðộ đến những
thành phố, bộ lạc phiên thuộc dưới quyền kiểm soát của Phù Nam. Óc-Eo ngày xưa
là một thương cảng trù phú có nhiều thương thuyền ghé lại. Vào thời điểm này
thương gia đến Óc-Eo tấp nập từ đông sang tây: Ðế quốc La Mã qua Ấn Ðộ và Trung
Hoa. Người ta đã tìm được những đồng tiền cổ của La Mã tại đây. Con của Hun Fan
Huang là Fan-Shih-Man lên nối ngôi khoảng đầu thế kỷ thứ 3. Tiếp
theo là các vua Hun Tien và Hun Phan Fan cha truyền
con nối. Vua Hun Phan Fan là một vị minh quân trị vì từ cuối thế kỷ thứ 3 qua
thế kỷ thứ 4. Ông nới rộng lãnh thổ, làm hùng mạnh quốc gia và thọ 90 tuổi,
không rõ năm nào. Con của vua Hun Phan Fan là Hun Phan Phan không
thích làm vua nên bỏ đi tu, nhường ngôi cho một viên tướng là Seray Mara sử
Tàu gọi là Fan Che Man. Vua Fan Che Man nới rộng lãnh thổ Phù Nam
ra gấp đôi diện tích cũ. Ông đã băng hà vào khoảng năm 204-210. Sau cái chết của
vua Fan Che Man triều đình Phù Nam rơi vào cảnh rối loạn liên tiếp. Người cháu
của vua là Fan Chan giết chết thái tử con của vua trước để chiếm ngôi. Hai mươi
năm sau một người con của vua Fan Che Man là Asachi lại giết được
Fan Chan để lấy lại ngai vàng. Sau đó không lâu Asachi lại bị tướng Siun
giết để lên làm vua. Hoàn cảnh nào đưa vua Chandana lên ngôi vương không được sử
liệu Trung Hoa nhắc đến. Có những chổ trống trong lịch sử những nước lân bang
mà có lẽ vì trùng họp với những biến động chính trị tại triều đình Trung Quốc
nên sử gia Trung Hoa đã không thể điều nghiên ghi chép.
Năm 357
Phù Nam dưới triều vua Chandana sang cầu phong Trung Hoa và xin
triều cống. Một điều đáng nói là mặc dù những dân tộc tại Ðông Nam châu Á bị ảnh
hưởng sâu đậm của văn minh Ấn Ðộ, nhưng người Ấn Ðộ và lịch sử Ấn Ðộ hoàn toàn
không quan tâm đến thế giới phía đông này cho đến mãi thế kỷ 20 chính phủ và
nhân dân Ấn Ðộ mới tìm hiểu thêm về một vùng văn minh Ấn Ðộ đã có mặt tại đây từ
lâu. Lịch sử Ấn Ðộ không đếm xỉa gì đến vùng Ðông Nam châu Á có ảnh hưởng văn
hóa Ấn trong quá khứ. Ngược lại người Trung Hoa từ hơn 2000 năm nay luôn xem
vùng biển phương nam thuộc ảnh hưởng của Thiên triều. Họ cho sứ giả đi điều tra
và ghi chép cẩn thận những điều mắt thấy tai nghe. Từ lúc ban đầu ấy các nước
đông nam Á đều đã có liên hệ ngoại giao với Trung Hoa qua hình thức cống sứ và
xin phong. Trong thâm tâm tầng lớp lãnh đạo Trung Hoa, Thiên triều có thẩm quyền
và nhiệm vụ can thiệp tại vùng nam châu Á nếu cần. Lịch sử đã chứng minh điều
đó và gần đây nhất là Trung quốc đã đánh vào miền Bắc Việt nam năm 1979 vì bất
đồng về chủ quyền và ảnh hưởng tại vương quốc Kampuchia. Nhưng cũng nhờ thế mà
ta có những sử liệu quí giá từ thời thượng cổ để tìm hiểu lịch sử của những quốc
gia phương nam của Trung Quốc trong đó có Việt Nam ngày nay và Phù Nam xưa.
Những thần
dân của Phù Nam xưa thuộc giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer, Miến, và dân
đa đảo Malay-indônêsiên. Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ pha trộn với nhiều sắc
thái, thổ ngữ địa phương. Người nước Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật
giáo. Vương quốc Phù Nam đạt đến sự cực thịnh dưới triều vua Kaundinya
Jajavarman (478-514). Vua Rudravaman (514-539) có sai sứ
sang Trung Hoa triều cống và cho biết Ngài có một lọn tóc xá lợi của Phật Tổ
Thích Ca Mâu Ni. Trong thời gian này các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đã
dịch cuốn Phật Kinh Vimutti Magga sang chữ Hán. Ngày nay cuốn kinh này
chỉ tồn tại bằng chữ Hán vì bản chánh chữ Phạn đã bị thất lạc. Thế rồi sau đó
vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nội loạn và sự nổi dậy của dân tộc Khmer (một
xứ phiên thuộc của Phù Nam), tràn sang từ vùng đất thuộc nước Lào bây giờ. Một
yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của Phù Nam là nền kinh tế của quốc gia đã
đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải. Thuyền buôn vào thời điểm
này đã có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé lại Óc-Eo trên đường đi qua Trung
Quốc. Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người Khmer
lúc đó là Vương quốc Chân Lạp. Ðến năm 627 Phù Nam bị người Khmer
dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ.
Những thần dân của Phù Nam bị sát nhập vào vương quốc Khmer. Hoàng gia của Phù
Nam dùng đường biển tị nạn sang đảo Java của Nam Dương (Indonesia). Họ sống âm
thầm mãi đến gần 200 năm sau, hậu duệ của nhóm người này phát lên để dựng nên triều
đại huy hoàng Sailendra. Các ông hoàng bà chúa của dòng họ này lại
kết hôn với các lãnh chúa của các tiểu vương lân bang như Mã Lai và nhiều đảo
quốc trong vùng. Cho đến ngày nay giới quí tộc, hoàng gia các nước đa đảo như
Mã Lai, Nam Dương (Indonesia) đều có liên hệ huyết thống với hoàng tộc nước Phù
Nam của miền nam Việt Nam.
Từ năm 550
trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền nam, người
Khmer cai tri xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp. Từ khi bị mất nước về
tay Chân Lạp người dân Phù Nam trở thành một dân tộc lục địa, mất đi khả năng
hàng hải. Ngày nay người Khmer nhìn nhận các vương triều Phù Nam là tổ tiên của
dân tộc Khmer và là một phần của lịch sử Khmer. Người Khmer còn được chúng ta
biết đến qua nhiều danh xưng Cao Miên, Chân Lạp, Cam bốt và Kampuchia. Vào lúc
người Việt di cư đến vùng đất miền Nam vào năm 1800 người ta tìm thấy một pho
tượng nữ vương bằng cẩm thạch bị chôn vùi từ thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 sau Công
nguyên. Có thuyết cho rằng đó là tượng quốc mẫu vương quốc Phù Nam là Soma. Người
Việt kính cẩn lập đền thờ bà tại núi Sam tỉnh An Giang gọi là đền thờ Bà Chúa Xứ.
Hàng năm cư dân Hoa, Việt, Miên lui tới cúng bái, hương khói vô cùng linh
thiêng. Sự việc đó cho thấy lòng biết ơn của những người đến sau đối với những
đợt người đã khai phá vùng đất này trước dân tộc Việt Nam.
II.
Vương quốc Chân Lạp làm chủ
khu vực miền nam Việt Nam (thế kỷ thứ 7-thế kỷ 17 sau Công Nguyên)
Năm 600-611
có triều vua Mahendravarman tiếp theo là vua Isanavarman đóng
đô tại Ankor Borey. Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lãnh thổ, xây
thêm đền đài. Ngài cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ
sông Cửu Long xuống tới miền Tây Việt Nam ngày nay. Khoảng năm 780 dòng Vương cũ
của Phù Nam giờ thành Vương Triều Sailendra của đảo Java (Indonesia) trở nên
hùng mạnh đã dùng binh lực ép buộc vương quốc Chân Lạp của người Khmer phải triều
cống và lệ thuộc. Từ năm 800 đến 887 nước chân Lạp dưới sự lãnh đạo của vua Jayavaman
II (802-887) và Jayavaman III (850-887) đã giành lại được
độc lập từ dòng Sailendra của Java. Vương quốc Chân Lạp được đổi tên là
Kampuchia. Trong thời này những thế lực phong kiến có khuynh hướng chia đế quốc
Chân lạp thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (vùng đồng bằng miền nam tức Phù
Nam xưa). Jayavaman II còn có tên là Puskarak đã từng bị bắt trong trận chiến,
và bị đày qua đảo Java. Sau ông trốn thoát về tổ chức nghĩa quân giải phóng đất
nước chống lại quân chiếm đóng Java và quân người Chăm nước Champa (Trung Việt
ngày nay). Năm 803 Puskarak lên ngôi Vương lấy hiệu là Jayavaman II rồi tuyên bố
độc lập. Tuy nhiên quyền lực của đảo quốc Java không ngừng dòm ngó vương quốc
Kampuchia của Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị vì ông đã dời đô 5 lần vì chiến
tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không con nối dõi nên một người bà
con họ mẹ đã lên ngôi xưng vương hiệu là Indravaman I (877-889).
Vua
Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài thao lược và cũng yêu nghệ thuật
văn thư. Trong đời ông đã có công thống nhất Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp và
xây dựng thêm nhiều thành phố lớn, khuyến khích nông nghiệp và thương mãi.
Indravaman I cũng khởi đầu nới rộng Ðế quốc Khmer (Kampuchia), thay đổi bản đồ
chính trị trên bán đảo Ðông Dương bằng những võ công nổi bật. Con của
Indravaman I nối sự nghiệp của cha xưng hiệu là Yaksovaman I
(889-900).Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara Ley đến Yaso
Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này sự phú cường
của Ðế quốc Kampuchia đã cho phép nhà vua khởi công nhiều công trình kiến trúc
vĩ đại trong đó có Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích), đền đài Lo
Ley, đền đài Phnom Bok. Angkor Wat đã là một công trình
kiến trúc vĩ đại nhất của vùng Ðông Nam Châu Á. Nhà vua còn cho đào hồ Ðông
Baray dài 7 km ,
ngang 1800 km .
Một công trình vĩ đại vào thời đó. Những công trình to tát này đa phần nhờ vào
hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được từ những trận chiến chinh phạt Xiêm và Lào.
Suốt thế kỷ thứ 9 Ðế quốc Khmer-Chân Lạp có 6 triều vương đó là Hashavaman
I (900-922), Isanavaman II (922-928), Jayavaman IV
(928-941), Harshavaman II (941-944), Rajendravaman II (944-968),
và Jayavaman V (968-1001). Rajendravaman II vốn là một vị tướng của
vương quốc sau khi gôm quyền lực vào tay đã lên ngôi vương tại Angkor Wat
(Ðế Thiên Ðế Thích). Trong 24 năm cầm quyền ông cho xây thêm nhiều đền tháp lâu
đài và đánh bại quân Chăm của Vương quốc Chiêm Thành (Champa, Trung Việt). Khi
nhà vua băng hà con là Jayavaman V lên thay. Sau cái chết của
Jayavaman V năm 1001 toàn lãnh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh đại loạn kéo dài 9
năm. Lãnh chúa Suryavaman I (1002-1050) đã đàn áp được những thế
lực khác và thống nhất ngôi Vương tại Angkor Wat. Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc
Khmer tiếp tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La
(Thái Lan), phía tây giáp Miến Ðiện, phía đông giáp Chiêm Thành. Trong thời
gian này hùng cường nhất là vua Suryavaman II (1113-1150). Nhà
vua xông pha trận mạc để lại nhiều võ công oai hùng. Ngài đã đụng trận với
Trung Hoa, Ðại Việt, Chiêm Thành, Xiêm và Miến-Mường. Ngài đã chết tại sa trường
một cách oanh liệt. Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc Chiêm Thành (Champa) xâm
lăng và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu
cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13. Trên thế giới lúc đó
là thời điểm đế quốc Mông Cổ đang bành trướng vào Ấn Ðộ phía Tây, xâm chiếm
Trung Hoa phía Bắc và phía Ðông hai vương quốc Ðại Việt và Chiêm Thành đang nắm
tay hợp sức đẩy lui đoàn quân viễn chinh Mông Cổ.
Sự suy nhược
của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi dậy giành
độc lập. Danh xưng ‘Thái’ có nghĩa là ‘tự do’ không còn nô lệ nữa. Quân đội người
Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát
hàng mấy vạn người gà chó không chừa để trả thù sự tàn bạo hà khắc mà người
Khmer đã áp đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát đã khủng khiếp đến độ không còn ai
sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Ðế đô Angkor đã bị quên lãng bởi chính người
Khmer trong suốt 500 năm mãi đến thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong
lúc đi thám hiểm rừng sâu mới tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.
Năm 1401? vua
Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang)
đánh dấu một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn độ cổ
Sanscrit không còn được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được
thay vào. Toàn thể những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hoá Ấn Ðộ biết
đọc, viết chữ Sanscrit đã bị người Thái tận diệt. Năm 1528 vua Ong Chân I
lại phải dời đô về Lovek (La Bích). Ðến năm 1593 quân Xiêm lại tấn
công La Bích. Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các vua chúa Khmer.
III.
Chúa Nguyễn bành trướng thế lực của người
Việt tại Thủy Chân Lạp (thế kỷ 17-18 sau Công Nguyên)
Một biến cố
chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Ðại Việt đã làm thay đổi tình thế
lúc đó là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền nhân của
Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim. Chính sách Nam Tiến của
các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo
nên áp lực to tát cho hai lân quốc Champa và Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ
năm 1611-1653 vương quốc Champa đã bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên
co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết. Không dừng lại ở Champa,
chúa Nguyễn bắt đầu dòm ngó đến Chân Lạp.
Sau một thời
gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi
vương năm 1618. Tân vương cải canh mọi việc và mang lòng không không phục người
Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân
vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm
vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp hai lần đều bị quân
của Chey Chetta II đẩy lui. Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương
đầu với quân Xiêm. Chey Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn
Ðàng Trong, lúc đó là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Quốc sử Cao
Miên đã chép như sau về giai đoạn này: ‘Vua Xiêm muốn tái lập uy quyền trên
đất Cao Miên, nên xua binh tấn công. Năm 1623, một đạo quân từ phía Bắc xâm nhập
lãnh thổ, bị quốc vương Chey Chetta II thân chinh đánh tan rã ở Bâribaur cách
biển Hồ lối 50 km .
Ðạo thứ hai tiến vào tỉnh P. Meas bị Hoàng đệ Prah Outey đẩy lui. Năm sau, 1624
quân Xiêm theo đường biển đổ bộ miền duyên hải, bị phản công dữ dội phải rút về.
Ðể đề phòng quân Xiêm quấy nhiễu, quốc vương Chey Chetta II cưới một công chúa
xứ Ðàng Trong hầu dựa vào thế lực của nhà Nguyễn ở Huế.’
Chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên đã quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên
năm 1620. Chúa còn hai Hoàng nữ khác là Ngọc Khoa gả cho vua
Chiêm Pô Romê và Hoàng nữ Ngọc Hoa lạigả cho một
thân vương người Nhật Bổn.Vua Cao Miên mặt khác lại nghe truyền rằng Sãi Vương
là người mộ đạo Phật, trong người có nhiều Phật tính nên muốn kết tình gia
đình. Ði theo hộ tống đám cưới bà Hoàng Ngọc Vạn xinh đẹp là đông đảo quan lính
người Việt của Sãi Vương trang bị khí giới, tàu thuyền có súng ống, thuyền được
trang hoàng lộng lẫy hình chim phượng mạ vàng. Tham dự lễ cưới có nhiều người
ngoại quốc từ Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Nhựt Bổn, Ý Ðại Lợi, Trung Hoa. Bà
Ngọc Vạn ngồi kiệu 8 người khiêng sánh duyên với vị vua hào hùng anh tuấn.
Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Sô Dach Prea
Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.
Tiếp theo sau
cuộc hôn nhân vương giả này, bà Hoàng Ngọc Vạn đã xin với Hoàng phu cho nhiều
người tùy tùng nắm giữ chức quyền trong triều đình Chân Lạp. Dưới sự bảo trợ của
Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt theo đường biển vào lập
nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp. Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp,
đánh cá, thợ rèn v.v.. chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy
Chân Lạp lên đến 20,000 người. Sãi vương liền viết thư cho con rể xin ‘cho
mượn’ đất tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc
thâu thuế người Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau khi quốc
vương Cao Miên băng hà chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà Rịa giáp giới
Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey
(Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thâu thuế. Từ sau khi
vua Chey Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên
tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu
(1630-1640). Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu năm 1640 quan phụ chính Prah
Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con mình là Ang Non I (1640-1642)
lên ngôi. Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người
Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea
Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân.
Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin
cầu viện chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Chúa
Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10
năm 1658. Quân Chân Lạp thua to tại ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích. Quân
Nguyễn tiến vào Nam Vang bắt quốc vương Nặc Ông Chân bỏ vào cũi sắt đem về tỉnh
Quảng Bình. Vua Nặc Ông Chân chết tại đây. Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai
bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea
(1658-1672). Vào thời điểm này triều đình Chân Lạp hợp thức hóa chủ quyền của
nhà Nguyễn tại Ðồng Nai. Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám sát chết. Con trai là
Ang Chey tức Nặc Ông Ðài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người
Xiêm mang quân lấn ép vùng Ðồng Nai. Lưu dân người Việt kêu cứu triều đình chúa
Nguyễn lúc đó đóng đô ở Kim Long. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng
Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong
hỏi tội Nặc Ông Ðài rồi đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey
Chetta IV, em của Nặc Ông Ðài lên ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp.
Chúa Hiền lại đồng thời cho Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ
của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm Thứ Vương vùng Ðồng Nai –Mô Xoài. Vua
Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài Gòn tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị
vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc
Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về
chúa Nguyễn.
IV.
Các di thần nhà Minh xin định cư tại Thủy
Chân-Lạp vùng Biên Hòa-Mỹ Tho.
Vào năm 1679
tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh có di thần của nhà cựu Minh bên Tàu vì
không cự lại quân Thanh triều đến xin hàng phục nhà Nguyễn. Bọn di thần nhà
Minh gồm có Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng
Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình mang
3000 binh lính thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà Nẵng
xin được làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh
hàm chức tước rồi truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư xứ Ðồng
Nai và sau đó thay mặt cho nhà Nguyễn lấn dần đến Cần Thơ. Nhờ đợt di cư này mà
ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng to tát. Các tướng nhà
Minh giờ làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc
mở rộng lãnh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần
Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương. Người Minh vốn cùng văn hóa với người
Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp
nập. Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên
sầm uất vô cùng. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân thêm đất và
thêm thuế thu nhập.
Hiền Vương
Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương Nguyễn Phúc
Thái (còn gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú
Xuân (Huế). Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng
Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai
Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng
Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất
bình vì việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc
Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà
Nguyễn.
Tháng Giêng
năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận.
Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh thốc tới
Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng
vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan
quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó. Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài
băng hà năm 1691 thọ 43 tuổi.
Năm 1698 chúa
Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu
Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới
phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc
đó toàn miền nam có dân số 40,000 gia đình (hộ) đất đai mở ra 1000 dặm. Thành
quả này đạt được trong vòng 70 năm. Sự trù phú của miền nam nhờ một phần vào sự
tiếp sức của di thần nhà Minh và chế độ bắt người thổ dân, các dân tộc miền núi
về làm nô lệ. Theo lời kể của người phương Tây thì việc buôn bán nô lệ để giúp
người Việt canh tác có cả thuế nông nô của triều đình.
V. Căn Khẩu Quốc
- Hà Tiên
Năm 1671 có
người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông mang gia quyến
binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ biển
Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở
lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối
ren, ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận
cho. Mặc Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy
trốn nhà Thanh về lập nên 7 xã là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột
(Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá)
và Phú Quốc (Koh Tral). Ngoài ra còn có người Ấn Ðộ, người Nam Ðảo, người Kinh,
người Thái, người Cao Miên đến sinh sống. Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu.
Mạc Cử đặt tên vùng đất của mình là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lãnh địa này
thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị.
Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán,
cờ bạc, đổi chác tấp nập.
Thấy kinh tế
vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này. Năm
1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mặc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn
Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại
Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều
đình Chân Lạp cứu nhưng Vương triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ mình còn
không xong nên từ chối không thể giúp gì cho họ Mạc. Năm 1711 Mạc Cửu cùng tùy
tùng là Trương Cầu, Lý Xá mang vàng lụa đến gỏ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục
chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức
Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đình.
Nghe được tin này vua Xiêm cho 20,000 quân tấn công Căn Khẩu quốc, một thuộc địa
mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Ðịnh xin triều đình Huế cứu giúp.
Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu
cai trị nhưng đổi tên Căn Khẩu thànhHà TiênTrấn với mục đích lưu
lại dấu ấn của triều đình họ Nguyễn. Sử Cao Miên chép về chuyện này như sau: ‘Năm
1710, sau khi quốc vương Thomo Réachea bỏ thủ đô, Nặc Ông Em lên ngôi. Ðây là lần
thứ nhì ngài trị vì. Trong ba năm 1711-1716 và 1722, ngài đẩy lui ba lần tấn
công của Thomo Réachea nhờ quân Xiêm trợ giúp. Ngài nhờ triều đình Huế che chở
và giúp về mặt quân sự. Ngài phó thác việc phòng thủ các tỉnh Peam (Hà Tiên),
Kampot, Kampong Som cả cù lao Phú Quốc cho một người Trung Hoa tên Mạc Cửu. Họ
Mặc gốc người Quảng Ðông di cư sang Cao Miên sau khi bị nhà Thanh lật đổ. Ông gầy
dựng được sự nghiệp to tát nhờ mở sòng cờ bạc. Ông xây dựng một pháo đài ở
Peam, tuyển mộ quân sĩ và thủy thủ. Có lần một hạm đội Xiêm đến gần thị trấn định
đổ bộ giúp Thomo Réachéa bị quân Mặc Cửu tiêu diệt gần hết. Tuy nhiên đến năm
1715, Mặc Cửu qui phục chúa Nguyễn, quốc vương Ang Em thuận cho người Việt Nam
kiểm soát bờ biển từ miền Nam đến Xiêm. Về sau hoàng triều Cao Miên lấy lại quyền
hành trực tiếp hai tỉnh Kampot và Kompong Som, nhưng tỉnh Peam (Hà Tiên) và cù
lao Phú Quốc vẫn còn bị hậu duệ của Mặc Cửu cai trị cho vua Việt Nam’.
Mùa hạ năm
1735 Mạc Cửu chết, hưởng thọ 81 tuổi. Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (có
sử ghi là Trú:1725-1739) phong ông làm Khai Trấn Thượng Trụ Quốc
Ðại Tướng Quân, tước Cửu Lộc Hầu. Ðến đời Minh mạng được phong làm Thần hiệu
là Thọ Công Thuận Mỹ Trung Ðẳng Thần. Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ ban
cho dòng họ Mạc ‘Thất Diệp Phiên Hàn’ (bảy chữ quí tộc) nối đời vinh hiển
là: Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ lên nối
quyền cai trị Hà Tiên. Con của Tứ là Mạc Công Du, Con của Du là Mạc Hầu Lâm,
con của Lâm là Mạc Bá Bình, con của Bình là Mạc Tử Khâm, con của Khâm là Mạc
Nam Lan. Bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa kế nhưng cũng vừa tròn bảy chữ vua
ban.
VI.
Vùng đất Méso-Longhor tức Mỹ Tho, Vĩnh
Long
Năm 1731 quân
Chân Lạp đánh Gia Ðịnh. Ninh Vương sai Tướng Trương Phước Vĩnh và Cai Cơ Ðạt
Thành cùng tướng quân Trần Ðại Ðịnh (con của Trần Thượng Xuyên người Minh) đem
quân ra chống đỡ. Cai Cơ Ðạt Thành bị quân Cao Miên giết ở Bến Lức. Trần Ðại Ðịnh
mang quân bản bộ Long Môn đắp đồn Cây Mai ở Sài gòn để cầm cự. Cai đội Nguyễn Cửu
Triêm đem quân cứu ứng đến Bến Lức, quân Miên lại rút về Tân An. Tháng 4 năm
1731 Trần Ðại Ðịnh đánh vào Lovek (La Bích). Cha con quốc vương Chân Lạp là Nặc
Yêm (Ang Em) và Nặc Tha (Satha II) xin nhường đất Mésa (Mỹ
Tho) và Longhor (Dinh Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ) để cầu hòa. Chúa Nguyễn
sai khổn thần đo đạt đặt thành Châu Ðịnh Viễn và dinh Long Hồ. Riêng Trần Ðại Ðịnh
có công không có thưởng lại bị tội. Vốn Ninh Vương nóng lòng chiến thắng nhưng
nghe tin Ðại Thành tử trận nên viết thư quở Phước Vĩnh. Phước Vĩnh hãi quá đổ hết
tội cho Trần Ðại Ðịnh là người Hoa mưu phản xin mang ra xử trảm. Trần Ðại Ðịnh
trốn chạy nhưng không về Quảng Ðông mà ra Huế kêu oan. Chúa sai bỏ vào ngục chờ
điều tra rồi mới xử. Khi điều tra ra việc Phước Vĩnh vu oan thì Trần Ðại Ðịnh
vì buồn rầu nên bị ốm nặng đã chết. Ninh Vương truy tặng Ðại Ðịnh hàm Ðô Ðốc
Ðồng Tri thụy là Trương Mẫn. Trương Phước Vĩnh bị gián xuống làm Cai Ðội.
VII.
Mạc Thiên Tứ nới rộng thêm lãnh thổ cho
Nguyễn Vương Ðàng Trong.
Mạc Thiên Tứ
cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh
phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài. Về võ công Tứ cũng lẫy lừng không
kém. Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vua Cao Miên. Năm 1747 Tứ dẹp
yên bọn cướp biển ở Long Xuyên. Năm 1753 vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên
(Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên đồng
thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đòi lại đất đai
đã mất. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn Cư
Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa hạ năm 1754. Binh triều đi tới sông Vàm Cỏ
thì quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long. Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn
Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10,000
người và hộ tống họ đi về Ðồng Tháp Mười (Tà Vô Ân). Ở đây phục binh của vua
Cao Miên ùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5000 người. Quân tiếp ứng của ông
Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương gián ông Thiện xuống làm Cai
Ðội. Nguyễn Cư Trinh cứu được 5000 người Chăm cho về định cư ở núi Bà Ðen, Châu
Ðốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi
tiên phong đánh quân Cao Miên. Quân triều đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên
vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng. Vua Cao Miên nhờ Tứ
xin với Võ Vương cho dâng hai phủ Tầm Bôn (Gò Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc
tội. Chúa Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào châu Ðịnh Viễn. Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. Vua Cao Miên là Nặc Ông
Nguyên băng hà năm 1758. Dòng họ vua Cao Miên tranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ
giúp cho Nặc Ông Tôn làm vua nên được tặng Tầm Phong Lâm (Meat
Chruk) tức Châu Ðốc và Sa Ðéc. Nội chiến ở Cao Miên vẫn không dứt. Các vua Cao
Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là Nặc Ông Thuận
(Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu. Nặc Ông Tôn (Ang Tong)
hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Ðéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc
chủ quyền chúa Nguyễn.
Từ đây chấm dứt cuộc nam tiến của dân tộc Việt nam. Cuối triều Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát có quyền thần là Trương Phúc Loan ra mặt thao túng. Võ Vương băng hà
năm 1765, Trương Phúc Loan phế bỏ tự quân là Phúc Côn lập Ðịnh Vương Nguyễn
Phúc Thuần (1765-1777) 12 tuổi lên ngôi mở đường cho mầm loạn lạc về
sau. Sự việc sẽ nói ở phần sau.
VIII. Luận về những
khía cạnh văn hóa ngoài phạm vi đất đai.
Ðến đây dân tộc
chúng ta đã tạm dừng chân sau một cuộc hành trình dài. Khởi nguồn từ miền Nam
Trung Hoa khu vực rộng lớn phía Nam sông Dương Tử ở một quá khứ xa xôi. Những
di dân người Việt vào thế kỷ 17 đã lần đầu tiên nhìn thấy đồng bằng sông
Mékong. Tại đây có đồng bằng, sông lạch, rồi lại đồng bằng. Nhiều đồng bằng
hơn cả đồng bằng sông Hồng, một vùng đất duy nhất tổ tiên chúng ta có thể biết
được để so sánh. Ðối với một dân tộc sống nhờ vào trồng lúa ngập nước thì vùng
đất này là ‘vàng’. Khi mà nhà Thương Trung Quốc ngày xưa chỉ có 70 dặm mà
xưng Ðế thì chúa Nguyễn và dân tộc Việt Nam vào thế kỷ 17 đã có 1000 dặm dư đồ.
Một ngàn dặm vàng. Một thành quả không nhỏ.
Miền nam có một
khí hậu không bao dung cho nhiều người đến từ phương bắc. Ở đây mưa triền miên
6 tháng rồi lại nắng liên tục 6 tháng. Ðầm lầy đầy những muỗi mồng rắn rít cực
độc. Rừng rậm nhiều lau sậy chứa đựng những hiểm nguy khôn lường, những ác thú
như cọp, gấu, cá sấu có thể giết và ăn thịt người. Sau rừng cây ẩn hiện những
người đờn thổ đen đúa trần truồng tâm tính bất tường đối với chúng ta. Rất có
thể những người thổ dân tại đây có những bùa mê ngải lú mà chúng ta không biết?
Lo âu! Cả một vùng đất hoàn toàn xa lạ mà những thần linh quen thuộc dường như
không còn quyền phép để nhường chỗ cho những quyền lực thần bí khác. Chúng ta
có thể phần nào cảm thông được nỗi lo sợ của những người Việt đầu tiên đến đây
theo lịnh của chúa Sãi qua câu ca dao xưa: ‘Tới đây non nước lạ lùng, nghe
tiếng chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo’. Theo sử liệu triều Nguyễn
thì vùng đất mới miền Nam gần như hoang vu, có chăng chỉ là rải rác những srok
của người Khmer. Srok tiếng Khmer có nghĩa là vương quốc nhưng cũng lại có nghĩa
là một vùng mà cư dân có thể đi lại bằng chân. Tương tự như chúng ta dùng danh
từ nước để chỉ nước uống và quốc gia. Tuy thế đơn vị srok vào thời đó lại
không có nhà thương, trường học, đạo giáo thì tùy tâm, quan lính thỉnh thoảng mới
đến chỉ để thâu thuế và vua thì xa.
Vào thế kỷ
17, vương quốc Chân Lạp ở giai đoạn suy yếu. Một giai đoạn suy yếu đã kéo dài từ
thế kỷ 13 sau hơn 1000 năm thành công theo văn hóa Bà La Môn giáo (Hindu).
Nhưng với tình thế thay đổi nhanh chóng nền văn hóa cổ này với những hệ lụy đẳng
cấp bất di dịch không còn thích hợp với không khí chính trị nơi đây. Người
Khmer, trong sự lấn cấn sau khi thất thủ đế đô Angkor đã từ bỏ Bà La Môn giáo để
thay vào đó bằng Phật giáo, vốn cũng đã từng tồn tại song song với Bà La Môn
giáo nhưng giờ lại trở nên có nhiều ưu thế hơn trong hoàn cảnh mới đầy loạn lạc.
Khác với Bà La Môn giáo là đạo thật sự của giới quí tộc cầm quyền mà thôi vì nó
giúp cho giới này duy trì quyền lực, Phật giáo tạo một cảm giác bình đẳng cho mọi
người. Thế nhưng vương quốc Khmer vẫn không thể tạo lại nét huy hoàng quá khứ.
Văn hóa Phật giáo cân bằng sự khắc khe của Bà La Môn giáo nhưng lại mang tính
chấp nhận hiện tại như một định mệnh ‘karma’. Tại miền Nam những dấu vết của một
đế quốc Phù Nam được dựng lên bởi những võ công bằng thủy quân, một nền kinh tế
cường thịnh nhờ thương mãi đã theo những di tích xa xưa chôn vùi trong lớp bùn
đất tại Óc Eo. Người di dân Việt Nam sau cùng đã đến đây để chinh phục vào thế
kỷ 17. Người Việt sau 4000 năm Nam tiến giờ đã mang trong mình nhiều dòng máu
pha trộn của người Việt cổ, Lạc hầu lạc tướng gốc Mường, Hán tộc, Chăm, Nam đảo-Malay-Polynésiên
và giờ đây những cuộc hôn nhân giữa Việt-Cao Miên lại cho chúng ta yếu tố
Môn-Khmer trong dòng máu người miền Nam.
Dù không đem
thành bại luận anh hùng, yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại của một
dân tộc vẫn là yếu tố văn hóa. Ðặt biệt là văn hóa tổ chức. Di dân Việt Nam là
một tạp chủng về mặt huyết thống nhưng văn hóa lại là văn hóa Khổng-Mạnh của
Trung Hoa đề cao sự học và phục tùng mệnh lệnh. Vì đề cao sự học nên không có
phân chia đẳng cấp vĩnh viễn của Bà La Môn giáo. Một người bần dân nếu học giỏi
vẫn trở thành Công Hầu vinh hiển trong một kiếp người và ngược lại từ Công Hầu
có thể trở thành ‘Cai Ðội’ ngay nhãn tiền nếu bất tuân thượng lịnh. Thêm vào đó
người Việt Nam lại cũng có thêm chút đỉnh Phật giáo nhưng đa phần là đạo thờ tổ
tiên và vai trò phụ nữ trong gia đình vẫn hãy còn mạnh. Một chút gì sót lại của
chế độ mẫu hệ mà người Chiêm Thành và người Việt cổ cùng chia sẻ. Ðến đây chúng
ta có cảm tưởng chỉ có một hướng đi xuống phương nam mà thôi. Thực ra không phải
thế. Từ thượng cổ trước thời điểm có sự phân chia quốc gia, Hán tộc tức
người Tàu hay Trung Hoa chỉ tập trung ở khu vực sông Hoàng Hà, cái nôi của nền
văn minh Trung Hoa. Chung quanh họ lúc đó không phải là đất hoang mà là nơi tập
trung của những giống dân khác trong đó có Việt tộc. Người Việt cổ, cứ coi là
man di thật sự đi, đã cộng cư với những giống dân ‘man di mọi rợ’ anh em khác
như Chăm cổ, Malay-Polynesien cổ từ phía nam kéo lên phương bắc. Trong giai đoạn
khủng hoảng tranh chấp giữa nhóm người ‘văn minh’ với hào quang của những tiến
bộ của người Hán, nhóm người ‘man di’ anh em trở thành thù địch. Thù địch rồi lại
trở thành anh em để chống lại Hán tộc. Chiến tranh rồi lại hoà bình. Hoà bình rồi
lại chiến tranh. Cứ thế từng đợt người lại kéo ngược về phương nam chinh phục
những vùng đất cũ giờ lại thành ‘mới’. Ðến đầu thề kỷ 19 nền văn hóa Phật-Khổng
Mạnh lại bị văn hóa của người Pháp da trắng từ xa đến chinh phục.
Tài liệu tham
khảo:
1. Charles
Kimball 2000: The history of Funan
2. History of
the Kingdom of Cambodia by the Royal Government of Cambodia website.
3. Nguyễn Hữu
Hiếu 2001: Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương nam
4. Phạm Văn
Sơn 1960: Việt sử toàn thư
5. Ðại Nam thực
lục tiền biên
6. Lê Hương
1970: Sử Cao Miên.
7. Serge
Thion 1988: Remodelling broken images: manipulation of identities. Towards and
beyond the Nation
(Trích từ Viễn Tượng Việt Nam số 3, tháng 10, 2004)
END.
*******************************************************
Bước Nam tiến thứ Tư
và vai trò của 2 Công nữ Chúa Nguyễn
Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của
chúa Trịnh từ phương bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương nam, các chúa
Nguyễn đã bắt đầu một công cuộc mở mang nhanh, mạnh bờ cõi Việt Nam về phía
nam. Quá trình này chấm dứt sự tồn tại 17 thế kỷ của vương quốc Chăm Pa. Bước
này chia thành nhiều giai đoạn khác nhau: .
Năm 1611, Nguyễn Hoàng (阮潢,1558-1612) đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên. .
Khi đó, vùng đất Nam Bộ nay thuộc quyền cai quản của Thủy Chân Lạp còn là vùng đất sình lầy, nước mặn, chẳng trồng trọt gì được, thỉnh thoảng mới có một một vùng đất cao để làm vườn làm nhà, đường giao thông lại không có, dân cư thưa thớt. Các quan lại Thủy Chân Lạp (di huệ của Chân Lạp) cũng quản lý rất lỏng lẻo, đất đai bỏ hoang, trộm cắp hoành hành, thú dữ rập rình. Trong bối cảnh đó, đồng thời với việc Chúa Nguyễn tổ chức khai thác miền đất đã chiếm được của Chiêm Thành, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai, phải tốn công đắp đê ngăn nước mặn, đào mương, đúc cống, chật vật và họ cũng tổ chức buôn bán ở Sài Gòn. Trong quá trình đó họ không gặp phản kháng gì đặc biệt của Chân Lạp. .
Nhằm rảnh tay đối phó với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài và tranh giành ảnh hưởng với người Bồ ở Chiêm Thành, năm 1631 Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (阮福元, 1613-1635) học tập vua nhà Trần đã đi một nước cờ cao “đổi giai nhân lấy bình yên”. .
Một trong những người thiếp của ông là Nguyễn Thị Giai (阮氏, 1578-1630) trưởng nữ của Khiêm vương Mạc Kính Điển 莫敬典 mà Kính Điển lại chính là cháu Mạc Đăng Doanh (莫登瀛, 1530-1540), chắt Mạc Đăng Dung (莫登庸, 1527-1530). Khi nhà Mạc thất cơ (1592), Kính Điển tử trận em là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng có đem theo con Kính Điển cùng đi. Người con gái đó được Nguyễn Thị Ngọc Dương (vợ Cảnh Huống, dì Phúc Nguyên) tiến cháu vào hầu Phúc Nguyên khi cha Sãi vương là Nguyễn Hoàng còn tại vị và vì thế nên con Mạc Kính Điển lại mang họ Nguyễn. Chính Nguyễn Thị Giai là thân mẫu của Nhị Công nữ Ngọc Van 玉萬公女 và Tam Công nữ Ngọc Khoa, hai giai nhân góp công trong việc mở mang bờ cõi Đại Việt về phía Nam. Như vậy 2 Công nữ của Chúa Nguyễn có công đặt bàn đạp Nam tiến cho Đại Việt là thuộc dòng dõi nhà Mạc (1527-1592) vốn phát tích ở Cổ Trai, Dương Kinh, Hải Phòng và là hậu duệ của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Năm 1611, Nguyễn Hoàng (阮潢,1558-1612) đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên. .
Khi đó, vùng đất Nam Bộ nay thuộc quyền cai quản của Thủy Chân Lạp còn là vùng đất sình lầy, nước mặn, chẳng trồng trọt gì được, thỉnh thoảng mới có một một vùng đất cao để làm vườn làm nhà, đường giao thông lại không có, dân cư thưa thớt. Các quan lại Thủy Chân Lạp (di huệ của Chân Lạp) cũng quản lý rất lỏng lẻo, đất đai bỏ hoang, trộm cắp hoành hành, thú dữ rập rình. Trong bối cảnh đó, đồng thời với việc Chúa Nguyễn tổ chức khai thác miền đất đã chiếm được của Chiêm Thành, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai, phải tốn công đắp đê ngăn nước mặn, đào mương, đúc cống, chật vật và họ cũng tổ chức buôn bán ở Sài Gòn. Trong quá trình đó họ không gặp phản kháng gì đặc biệt của Chân Lạp. .
Nhằm rảnh tay đối phó với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài và tranh giành ảnh hưởng với người Bồ ở Chiêm Thành, năm 1631 Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (阮福元, 1613-1635) học tập vua nhà Trần đã đi một nước cờ cao “đổi giai nhân lấy bình yên”. .
Một trong những người thiếp của ông là Nguyễn Thị Giai (阮氏, 1578-1630) trưởng nữ của Khiêm vương Mạc Kính Điển 莫敬典 mà Kính Điển lại chính là cháu Mạc Đăng Doanh (莫登瀛, 1530-1540), chắt Mạc Đăng Dung (莫登庸, 1527-1530). Khi nhà Mạc thất cơ (1592), Kính Điển tử trận em là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng có đem theo con Kính Điển cùng đi. Người con gái đó được Nguyễn Thị Ngọc Dương (vợ Cảnh Huống, dì Phúc Nguyên) tiến cháu vào hầu Phúc Nguyên khi cha Sãi vương là Nguyễn Hoàng còn tại vị và vì thế nên con Mạc Kính Điển lại mang họ Nguyễn. Chính Nguyễn Thị Giai là thân mẫu của Nhị Công nữ Ngọc Van 玉萬公女 và Tam Công nữ Ngọc Khoa, hai giai nhân góp công trong việc mở mang bờ cõi Đại Việt về phía Nam. Như vậy 2 Công nữ của Chúa Nguyễn có công đặt bàn đạp Nam tiến cho Đại Việt là thuộc dòng dõi nhà Mạc (1527-1592) vốn phát tích ở Cổ Trai, Dương Kinh, Hải Phòng và là hậu duệ của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Năm 1623 chúa Nguyễn Phúc Nguyên (阮福元, Chúa Sãi, 1613-1634) gây áp lực với Chân Lạp, “mượn” vùng đất Prey
Nokor (Sài Gòn ngày nay) đặt trạm và quan chức thu thuế lưu dân Việt đang sinh
sống xung quanh ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa. Nhờ sự tác động của hoàng hậu
Somdach Prea Peaccayo dey Preavoreac Ksattecey (tức Ngọc Vạn Công nữ 玉萬公女, người
con gái thứ hai của Sãi Vương được Chúa gả cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II
vào năm 1620), vua Chân Lạp đồng ý cho người Việt đến đó canh tác. Đây là lần đầu
tiên quan binh Đại Việt chính thức đặt chân lên đất Chân Lạp, và Mô Xoài là bàn
đạp để người Việt dần dần tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long, một bước đặt nền
từ chủ trương hôn phối.
.
Năm 1631 Sãi vương gả tam Công nữ là Ngọc Khoa 玉姱公女 cho vua Chiêm Porome kết tình hoà hiếu và đây cũng là nguyên nhân mà từ 1639 người Bồ Đào Nha không giao thương với Chiêm nữa. Truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng bà Ngọc Khoa đã làm cho vua Po Romê trở nên mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ. Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm nhằm đòi lại đất Phú Yên đã đưa quân ra đánh chiếm. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần (阮福瀕,1648-1687) sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú. .
Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần (阮福瀕, 1648-1687) đã giúp một hoàng thân Chân Lạp lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai và Bà Rịa. Lúc này Tiêm La (hậu duệ của Phù Nam cũ) đã mạnh nên muốn giang tay ra phía Đông tới đây nhưng vì nhà Nguyễn đang mạnh nên phải thôi. Tại khu vực này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã cử một đội quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.
Năm 1631 Sãi vương gả tam Công nữ là Ngọc Khoa 玉姱公女 cho vua Chiêm Porome kết tình hoà hiếu và đây cũng là nguyên nhân mà từ 1639 người Bồ Đào Nha không giao thương với Chiêm nữa. Truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng bà Ngọc Khoa đã làm cho vua Po Romê trở nên mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ. Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm nhằm đòi lại đất Phú Yên đã đưa quân ra đánh chiếm. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần (阮福瀕,1648-1687) sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú. .
Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần (阮福瀕, 1648-1687) đã giúp một hoàng thân Chân Lạp lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai và Bà Rịa. Lúc này Tiêm La (hậu duệ của Phù Nam cũ) đã mạnh nên muốn giang tay ra phía Đông tới đây nhưng vì nhà Nguyễn đang mạnh nên phải thôi. Tại khu vực này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã cử một đội quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.
Năm 1679 có quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng
binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An
Bình là tổng binh châu Cao, Lôi, Liêm (Quảng Đông) không chịu làm tôi nhà
Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Đại Việt. Chúa Hiền
nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Những người
này chia nhau ở đất Lộc Đã (Đồng Nai), Ban Lân (Biên Hòa) và Mỹ Tho (Tiền
Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương Tây, người Nhật
Bản, người Chà Và đến buôn bán khá đông.
Năm 1680 Mạc Cửu, người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang Chân Lạp, mở sòng bạc và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên. Mạc Cửu mở rộng đất đai gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc vốn thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được. Năm 1718 để tránh áp lực thường xuyên của Xiêm La sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa Nguyễn, chúa Phúc Chu đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy học để khai hóa đất Hà Tiên. .
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn Phúc Chu (阮福周, Chúa Quốc,1691-1725) sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành.
Tuy nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá đồng của Chân Lạp nên qua năm 1695, chúa Quốc đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. Đến năm 1832, vua Minh Mạng (明命皇帝,1820-1840) xóa bỏ cơ chế tự trị, lập thành tỉnh Bình Thuận.Việc này đồng nghĩa với việc Vương quốc Chăm Pa chính thức không còn tồn tại.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu (阮福啁, 1691-1725) sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố của những người Tàu ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phan Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, lập sổ bộ nước Việt.
Năm 1680 Mạc Cửu, người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang Chân Lạp, mở sòng bạc và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên. Mạc Cửu mở rộng đất đai gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc vốn thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được. Năm 1718 để tránh áp lực thường xuyên của Xiêm La sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa Nguyễn, chúa Phúc Chu đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy học để khai hóa đất Hà Tiên. .
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn Phúc Chu (阮福周, Chúa Quốc,1691-1725) sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành.
Tuy nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá đồng của Chân Lạp nên qua năm 1695, chúa Quốc đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. Đến năm 1832, vua Minh Mạng (明命皇帝,1820-1840) xóa bỏ cơ chế tự trị, lập thành tỉnh Bình Thuận.Việc này đồng nghĩa với việc Vương quốc Chăm Pa chính thức không còn tồn tại.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu (阮福啁, 1691-1725) sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố của những người Tàu ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phan Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, lập sổ bộ nước Việt.
Năm 1699, triều đình Chân Lạp tổ chức một
cuộc phản công nhằm dành lại nhưng bị thất bại.
Năm 1739 Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm
soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Sóc Trăng. Đưa thêm các
vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn
Năm 1753, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài
Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát (阮福闊,Võ Vương,
1738-1765) sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1755, Nặc Nguyên (Ang
Tong) thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng
hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Long Xuyên và Cần Thơ) cho chúa Nguyễn để cầu
hòa.
Năm
1757 Nặc Nguyên (Ang Tong) mất, chú họ là Nặc Nhuận
đang xin chúa Nguyễn phong cho làm vua thì bị người con rể là Nặc Hinh giết và
cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát (阮福闊,
1738-1765) cho lập Nặc Tôn (Outey II), con Nặc Nhuận, vốn đang nương nhờ Mạc
Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn, làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm
Phong Long (vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa
Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh) để tạ ơn chúa Nguyễn. Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương
Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ (5 phủ này về
sau khi Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã cắt trả về cho Cao Miên, ngày
nay là 2 tỉnh Takéo và Kampot). Vương quốc Chân Lạp chính thức chấm dứt sự tồn
tại. Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà
Tiên cai quản.
.
Cuộc Nam tiến của Đại Việt đến đây kết thúc bởi phía trước đã là biển (Vịnh Thái Lan). Sau này quan dân Đại Việt luôn tâm niệm về cội nguồn Văn Lang của mình:
Từ thủa mang gươm đi mở cõi,
Ngàn năm thương nhớ đất Thắng Long.
Nguồn:
http://hoptuyenlsvh.blogspot.com/2005/02/tn-mn-v-qu-trnh-m-mang-b-ci-t-nc-vit.html
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_ti%E1%BA%BFn
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3nh_th%E1%BB%95_Vi%E1%BB%87t_Nam_qua_t%E1%BB%ABng_th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3
http://www.vn.net/article.php/2008053123023240
Cuộc Nam tiến của Đại Việt đến đây kết thúc bởi phía trước đã là biển (Vịnh Thái Lan). Sau này quan dân Đại Việt luôn tâm niệm về cội nguồn Văn Lang của mình:
Từ thủa mang gươm đi mở cõi,
Ngàn năm thương nhớ đất Thắng Long.
Nguồn:
http://hoptuyenlsvh.blogspot.com/2005/02/tn-mn-v-qu-trnh-m-mang-b-ci-t-nc-vit.html
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_ti%E1%BA%BFn
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3nh_th%E1%BB%95_Vi%E1%BB%87t_Nam_qua_t%E1%BB%ABng_th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3
http://www.vn.net/article.php/2008053123023240
õ
PHẦN 4 : THỰC TẬP
1.
Năm 1471 thì bờ biển phía nam của
nước Chiêm và Chân Lạp tiến tới đâu ?
2.
Nói rõ ý nghĩa của các danh từ :
Phù Nam ; Côn Nam và Bồn Man
3.
Hiện ngày hôm nay dân Phù Nam,
Côn Man hay Bồn Man hiện đang ỏ đâu mà không thấy tăm hơi đâu cả ? Nếu bị
diệt chủng thì bị diệt vào năm nào, và dân tộc nào đã diệt họ ?
4.
Ai là người khai phá để biến đất
bồi miền Nam (Phù Nam) thành thị trấn ?
5.
Có chiến tranh vũ trang giữa dân
Việt và dân Chân Lạp không ? Nếu có thì nói rõ các năm binh biến.
6.
Nói rõ thời điểm lập quốc, lý
do lập quốc và cương vực lúc lập quốc của : Nước Văn Lang, Nước Chiêm và
nước Chân Lạp.
7.
Nói rõ sự khác biệt giữa nước
Chiêm và xứ Chiêm Thành.
8.
Nói sơ lược lịch sử của nước Chân
Lạp : Từ Thủy và Lục Chân Lạp đến Vương Quốc Angkor và Triều Đình Phnom
Penh.
9.
Nói rõ nguồn gốc của dòng Norodom
(Nặc Ông).
10.
Nói sơ lược về sự binh biến giữa
Chiêm và Việt trong giai đoạn từ 1069 tới 1470.
11.
Nguyễn Hoàng là ai ? Ái quốc
hay con buôn chánh trị ?
12.
Tại sao Nguyễn Kim lại mưu đồ đại
sự, quyất lập nghiệp Đế trên xương máu dân Việt bằng bất cứ giá náo ?
13.
Thiết lập bảng so sánh Nguyễn
Kim với Hồ Chí Minh. : Con người và âm mưu phá nước cho nghiệp Đế của mình.
14.
Các chúa Nguyễn có đại diện cho
dântộc Việt hay không ? Tại sao ?
15.
Hãy nói sơ lược về công đức của
các chúa Nguyễn từ năm 1613 đến 1765 : Kinh tế và Lãnh thổ.
16.
Tại sao sách nói Chiêm Thành
(Ninh Thuận và Bình Thuận) là một nước ?
17.
Nếu Chiêm Thành là một nước thì :
a.
Bằng cách nào mà các chúa Nguyễn
có thể khai khẩn mảnh đất Phù Nam thành Châu, thành quận được ?
b.
Nếu nói vì lý do Thông Thương nên
chúa Minh Vương phải đánh nước Chiêm Thành có hợp lý (logic) hay không ? Nếu
không thì lý do chánh là gì ?
18.
Tại sao chúa Nguyễn Phúc Chu
(Minh Vương) đã xóa bỏ chế độ tự trị vùng Chiêm Thành (1693) lại phải cho phục
hồi chế độ tự trị (1697)?
19.
Ai đã thoán nghịch ngôi chúa
Nguyễn ? Ai đả giật sập uy quyền của chúa Nguyễn ?
20.
Mạc Cửu là ai ? Đến Hà Tiên
năm nào ?
21.
Tại sao Mạc Cửu xây dựng thương
cảng Hà Tiên mà một quốc gia hay chánh phủ nào (Việt, Thái, Khmer) phản đối cả ?
END
-----------------------------------------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét