Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

Bài số 2.05: Công trình khẩn hoang của các chúa NGUYỄN


Bài số 2.05
Công trình khẩn hoang của các chúa NGUYỄN
Soạn giả: Trần Vũ Khiêm (Anh Quốc)
Xong ngày 20 december 2013

Đôi lời giới thiệu:

Ban Tài Liệu xin hân hạnh đuợc giới thiệu đến quý vị bài giảng về công trình mở mang bờ cõi v phương nam của soạn giả Trần Vũ Khiêm, dựa theo những tài liệu mà ông có trong tay.
Những bài sử học dưới thời nô lệ Thực Dân Pháp đều bị bóp méo để nói rằng dân Việt sinh ra để làm nô lệ cho người, hay dân Việt ác đức tiêu diệt dân Chăm (Champa), chiếm đất của Khmer....nhưng s thực thì ngược lại.

Ở đây chúng ta không nói đến những lỗi lm của Nguyễn Hoàng và Hậu Duệ của ông với quyết tâm xây dựng nghiệp Đế trên xương máu của dân Việt và dân Chàm. Quyết tâm này đã bị Hoàng Đế Bảo Đại xóa bỏ bằng hành động của Ngài như: Xóa bỏ tục lệ lạy Vua và cung tần mỹ nữ.....,nhất là lấy vợ người Kitô giáo (chối bỏ miếu đường) và phong ngay cho bả làm Hoàng Hậu để xóa bỏ tục Tứ Bất Lập là: Trạng Nguyên, Tể Tướng, Hoàng Hậu và Thái Tử.

 Đọc bài:
1.    số 2.05: Công trình các chúa Nguyễn khai khẩn đất bồi phương Nam mà chúng ta bổn phận phải bảo quản.
2.    số 2.09: Chiêm và Việt, ai xâm lăng ai? Để biết dân Việt là nạn nhân của vua Chiêm
Thì chúng ta sẽ thấy Việt và Chân Lạp đều là nạn nhân của Đế Quốc Chiêm.
õ
Theo tài liệu Hải Dương học của các trường Đại Học thì:
thời điểm 1471, đồng bằng sông Cửu Long là đất đang bồi, chưa ở được nên gọi là đất Phù Nam; tức đất bồi ở phương Nam, muốn xây dựng thành đất đô thị hay xóm làng thì phải mất công khai phá. Người tá túc trên đất này đều là những người đi biển tạm trú nên gọi là dân Côn Man hay Bồn Man...Tức dân ANH CHỊ. Côn là Cây Gậy, còn Bồn là Cồn Đất nhô trên mặt nước như vùng Cà Mau ngày hôm nay vậy. Man là thiếu Văn Hóa.
                  ü            Vì thế cho nên không thể gọi đất này là đất của Chân Lạp được, mà cũng không thể gọi là đất của dân Phù Nam được; mà làm gì có dân tộc Phù Nam, Côn Man hay Bồn Man.

Lý do là ở thời điểm 1471 thì:
1.      Bờ biển chạy dài từ tỉnh Bình Thuận (Phan Thiết)  tới Phnom Penh và biển hồ Tonlé Sap.
2.      Người Chân Lạp sinh sống từ bờ biển Tonlé Sap (Thủy Chân Lạp) lên đến vùng cao nguyên (Lục Chân Lạp; hay Hỏa Chân Lạp vì tính nết nóng nảy), dân số chưa đầy 3 triệu người nên chưa đủ khả năng để khai khẩn vùng đất bồi mà họ chưa cần tới.
3.      Người Chiêm cũng không thiết khai khẩn vùng đất bồi này, mà họ đem quân đi khống chế nước Đại Việt và nước Chân Lạp.
4.      Năm 1471: Cá nằm chốc thớt; vua Lê Thánh Tôn bị dao Chiêm kè cổ (coi bài 2.09 & 2.10) nên phản công tiến chiếm Quy Nhơn (Bình Định) rồi sát nhập nước Chiêm vào nước Đại Việt bằng cách hội nhập văn hóa của 2 sắc dân.
Vì muốn có cuộc sống hài hòa nên Ngài để cho vùng đất còn lại bằng 2/5 diện tích nước Chiêm, theo thể chế TỰ TRỊ không có Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao; vì đó là nước Đại Việt. Đó là vùng Hoa Anh (Phú yên và Khánh Hòa); Chiêm Thành (thành trì cuối cùng của người Chiêm là Ninh Thuận và Bình Thuận, sau đó là biển);  Nam Bàn (tức vùng Tây Nguyên ngày hôm nay). Vì lý do tâm lý nên ta gọi là « nước» thay cho chữ vùng…Nếu là 3 nước độc lập thì họ đã kết hợp thành một cho mạnh chứ, đâu có chịu yếu hèn như vậy?.
5.      Nước Đại Việt cũng không có người để đi khai khẩn vùng đất bồi này.
Về sau, thời Trịnh Nguyễn Tranh Hùng, vì nhu cầu sinh tồn của nghiệp Đế nên các chúa Nguyễn mới dùng cường quyền xóa bỏ chế độ tự trị của 2 vùng Hoa Anh, Chiêm Thành và buộc họ phải đi khai phá vùng đất bồi này. Vì vậy nên mới có sự chống đối, và dân Chiêm bỏ vào tỵ nạn chánh trị ở vùng Nam Bàn, tổ chức lực lượng võ trang tự vệ như kiểu Fulro ngày hôm nay.
Bắt không được thì tha làm phúc; vì sợ già néo đứt dây nên chúa Nguyễn phải trả lại quy chế tự trị cho vùng Chiêm Thành, mà chỉ thít thêm một tý bằng cách dụ đi khai khẩn đất bồi thì được sung túc và tự do hơn là ở lại quê hương…giống y chang Việt Cộng bán dân làm nô lệ dưới mỹ từ : Lấy chồng ngoại quốc (nô lệ tình dục hay bán chôn nuôi miệng)….. Cộng tác Lao Động Quốc Tế (xuất cảng Lao Nô)….
Ø     Có điều nên nhớ là: Các chúa Nguyễn không đại diện cho dân Việt; bằng cớ là đại bộ phận dân Việt đều ở Đàng Ngoài với vua Lê.
6.      Nước Thủy Chân LạpLục Chân Lạp (còn gọi là Hỏa Chân Lạp) thành lập vào khoảng 450 năm sau tây lịch để chống lại sự xâm lăng của nước Chiêm. 
Đến năm 802–850 thì hai nước hợp nhất với nhau, mang tên là Vương Quốc ANGKOR và trở nên hùng mạnh vào thế kỷ thứ XI và XII…

Người ta bảo là Đế Quốc ANGKOR xâm lăng nước Phù Nam là thiếu cơ sở; vì Phù Nam là đất bồi của chung thiên hạ nên không có dân Phù Nam mà chỉ có dân tứ chiếng anh hùng (dân dao búa) nên được gọi là dân Côn Man hay Bồn Man.
Hơn nữa dân Vương Quốc ANGKOR chưa đầy 3 triệu người nên chưa đủ sức khai phá vùng đất bồi; thêm vào đó thì họ cũng chưa có nhu cầu khai phá vùng đất bồi này.
Sau đó, không biết vì lý do gì mà Vương Quốc ANGKOR tàn lụi và tiêu luôn. Người kế nghiệp chuyển đô về Phnom Penh vào năm 1434. Chẳng biết có phải vì dân Chiêm tiến đánh hay không, nhưng lúc này thì dân Chiêm rất mạnh và hung hăng, đó là thời Lê Lợi (1428-1433), Lê Thái Tôn (1434-1442) và Lê Nhân Tôn (1443-1459)……

Ngay sau khi vua Lê Thái Tôn băng hà, triều thần chém giết lẫn nhau thì năm 1446 (vua Lê Nhân Tôn mới có 5 tuổi : Ấu chúa) quân Chiêm tiến đánh nước Đại Việt. Đó là lý do để triều Thần giết vua và Thái Hậu đi; rồi mang kiệu ra ngoài rước vua Lê Thành Tôn lên để lo chấn chỉnh việc nước.
Vua Lê Thánh Tôn (1460-1497) lấy niên hiệu là Quang Thuận (1460-1489) là thời kỳ chỉnh trang hàng ngũ, và Hồng Đức (1470-1497) rồi kéo binh đi chinh phạt nước Chiêm của vua Trà Toàn; sát nhập nước Chiêm vào nước Đại Việt và gọi là vùng đất Quảng Nam (từ đèo Hải Vân đến hết Bình Định), 2/5 diện tích đất đai còn lại cho hưởng quy chế tự trị là vùng HOA ANH (Tuy Hòa và Khánh Hòa), vùng CHIÊM THÀNH (Ninh Thuận và Bình Thuận) và vùng NAM BÀN (tức Tây Nguyên ngày hôm nay.

Theo Hải Dương Học thì Phù Nam là đất bồi (giống như mũi Cà Mau ngày hôm nay vậy), mà ta gọi là Đồng Bằng sông Cửu Long.
Theo luật biển ngày hôm nay thì đây là thềm lục địa của 2 nước là Chiêm (Champa) và Chân Lạp (Khmer), mỗi bên một nửa. Phía Đông thuộc nước Chiêm (phần đất thuộc tỉnh Bình thuận). Phía Tây thuộc nước Chân Lạp (phần đất thuộc tỉnh Phnom Penh).
Theo luật thời đó thì là đất hoang, vô chủ, ai khai phá thì người đó hưởng. Bằng cớ là Hà Tiên do Mạc Cửu, thuyền nhân tỵ nạn chánh trị nhà Thanh sang cắm dùi (1680) và biến nơi sình lầy thành đô thị cho các thương thuyền dừng chân du hí và trao đổi hàng hóa thì chúa Nguyễn cũng chẳng nói gì; vua Xiêm La (Thái Lan) cũng chẳng nói gì; mà nhà cầm quyền ở Phnom Penh cũng êm ru luôn.
Mãi tận về sau, khi ăn nên làm ra thì quân cướp biển người Siam (Thái) và người Khmer mới đến quấy nhiễu để phá đám nên các thương nhân không ai dám ghé bến nữa.Vì sợ thất thu nên Mạc Cửu biếu Chúa Nguyễn mảnh đất này….Mà lúc đó Chúa chỉ cho mượn uy chứ không có người để tiếp thu nên phong ngay cho Mạc Cửu làm Tổng Trấn Binh của Trấn Hà Tiên (Trấn có nghĩa là tiền đồn).
õ

Đó là nói về công lao của các chúa Nguyễn để chúng ta biết đường bảo vệ thành quả đã tạo được.
                  ü            Nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ hiện có, đòi lại lãnh thổ và lãnh hải đã mất ; vì thế cho nên chúng ta cần phải ăn ở làm sao để có cuộc sống hài hòa bằng cách Hội Nhập Văn Hóa của các sắc tộc có mặt trên mảnh đất mang tên Việt Nam.

Còn về tội của Nguyễn Hoàng (phải nói là của Nguyễn Kim mới đúng) là: Mưu đồ xây dựng nghiệp Đế trên xương máu dân Việt như Việt Cộng ngày hôm nay; bất kể thiệt hại ra sao thì,
hiện bây giờ chúng ta chưa bàn đến tội trạng, vì đây là loại con buôn chánh trị thì thời nào cũng có nên chúng ta sẽ bàn riêng trong bài học số 10 (2.10): « Nguyên nhân suy thoái Tư Duy » thì mới biết đường Canh tân Tư Tưởng được.

Chỉ vì dân ta suy thoái Tư Duy nên con buôn chánh trị mới lợi dụng ; mà bắt đầu suy thoái từ thời vua Lê Thánh Tôn (1460) với quan niệm « Đất của Chúa, lúa của trời »; do đó Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm mới dương ngọn cờ Phù Lê diệt Mạc mà có người theo.

Ngày hôm nay Việt Cộng cũng ngang nhiên nói : Đảng trên nước, còn đảng thì còn nước mà người dân cũng lăn xả vào chết cho đảng như : Quân Đội bảo vệ Đảng. Công An thì: Còn Đảng còn Ta..... Hèn với giặc, ác với dân!
Vũ Việt Nhân
(Ban tài liệu)
õ
Bài này gồm 4 phần:
1.    Phần Giáo Khoa gồm:
a.    Ôn Cố: Tóm lược những điểm chính của dòng lịch sử
b.   Tri Tân: Chúng ta (người dân) phải làm gì để bảo vệ công lao người xưa và để xây dựng xã hội hài hòa giữa các sắc tộc? Do đó phải đầu tư trí tuệ để giải quyết vấn đề khó khăn trong thế hệ chúng ta (2014)
2.    Phần Tham Luận dành cho Giảng Viên hiểu rõ nguyên nhân của sự việc.
3.    Phần Trau Dồi Kiến Thức dành cho những ai muốn hiểu rộng thêm vấn đề
4.    Phần Thực Tập dùng để trắc nghiệm sự hiểu biết của mình bằng cách trả lời những câu hỏi


PHẦN 1:    GIÁO  KHOA

ÔN  C
Công Nghiệp Mở Nước

A.- BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Nhà Lê truyền thừa được 99 năm, 10 đời Vua, từ Lê Thái Tổ (1428-1433) đến Lê Cung Hoàng (1524-1527).

Nam Triều, Bắc Triều (1527-1592)
Năm 1527 Mạc Đăng Dung đảo chính giết vua Lê Cung Hoàng, nắm quyền cai trị lập ra triều đại nhà Mạc.Họ Mạc làm vua từ năm 1527 đến năm 1592 (đời vua cuối là Mạc Mậu Hợp) truyền được 5 đời trong 65 năm, nhưng không giữ được quyền bính nên phải rút lên Cao Bằng, nhờ Nhà Minh bên Tàu bảo hộ để tiếp tục hùng cứ ở vùng đất biên giới Hoa Việt (Cao Bằng), đến năm 1667 mới dứt hẳn.Triều đại nhà Mạc gọi là Bắc Triều.
Sáu năm sau ngày vua Lê Cung Hoàng bị giết tướng Nguyễn Kim và con rễ là Trịnh Kiểm giúp nhà Lê trung hưng ở vùng Thanh Hóa, bằng cách lập con út vua Lê Chiêu Tông lên làm vua xưng hiệu Lê Trang Tông (1533-1548), truyền được thêm 17 đời, đến Lê Chiêu Thống (1787-1788) mới chấm dứt. Như vậy, tổng công trước sau nhà Lê truyền được 354 năm, với 27 đời vua (6 năm không có vua Lê, từ 1527 đến 1533 là thời gian Mạc Đăng Dung mới chiếm ngôi).
Sử gọi l à nhà Lê Trung Hưng hay  Nam Triều hay là giai đoạn đánh nhau với họ Mạc trong
suốt 65 năm.

Trịnh Nguyễn Phân Tranh
Nói là Lê trung hưng, nhưng quyền cai trị thật sự lại thuộc về họ Trịnh và họ Nguyễn. Cả hai đều xưng Vương, tục gọi là chúa Trịnh và chúa Nguyễn: Chúa Nguyễn ở miền Nam hay còn gọi là Đàng Trong, chúa Trịnh ở miền Bắc hay còn gọi là Đàng Ngoài, cùng lấy tiếng phò Lê, nhưng lại nắm hết binh quyền. Vua Lê chỉ làm vua tượng trưng.
Chúa Trịnh và chúa Nguyễn lấy sông Linh Giang (sông Gianh chảy qua Đồng Hới, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Bình) – làm ranh giới cho Đàng Trong & Đàng Ngoài, hai Đàng nầy tranh giành đất đánh nhau 7 lần trong vòng 45 năm, khiến dân chúng hai bên đều phải chịu cực khổ, tổn thất về sinh mạng, tài sản không biết bao nhiêu mà kể.

Đây là khởi đầu của sự suy thoái cho đến ngày hôm nay; chúng ta sẽ phân tích kỹ càng trong bài số 10 (2.10): Nguyên nhân suy thoái Tư Duy, để biết cách thoát khỏi hiểm họa tiêu vong dưới gót chân giặc Tàu.

Thời kỳ nầy sử gọi là Trịnh Nguyễn Phân Tranh, nhưng sự thực là Trịnh Nguyễn tranh hùng con thú Việt Nam, chẳng ai thương dân yêu nước cả.
Tuy rất nhiễu nhương, nhưng riêng các chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại mưu cầu mở rộng giang sơn Đại Việt hướng về Nam để có đủ khả năng chống lại Đàng Ngoài.

Lược sử việc Nam tiến trước thời
Trịnh Nguyễn Phân Tranh (1069-1470)
Năm 1069 vua Lý Thánh Tông (1054-1072) đánh sang Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Vua Chiêm xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (thuộc tỉnh Quảng Bình ngày hôm nay) cho Đại Việt.
Khi lập Quốc vào năm 40 sau tây lịch thì cương vực nước Chiêm bắt đầu từ đèo Ải Vân (Hải Vân ngày hôm nay) vào tới Bình Thuận (tỉnh lỵ  là  Phan Thiết); lúc này đồng bằng sông Cửu Long chưa có; trong khi đang bồi thì gọi là đất Phù Nam (tức đất bồi ở phương Nam). Khi nước Ta bị nhà Đường thống trị, lợi dụng sự suy yếu này ( #800) quân Chiêm đánh chiếm đến tận Bố Chánh thuộc tỉnh Quảng Bình ngày hôm nay.
·        Coi thêm bài số 9 (2.09) Chiêm Việt: Ai xâm lăng ai?

Năm 1306, vua Chiêm là Chế Mân xin cưới công chúa Huyền Trân (con vua Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông), và xin dâng 2 châu Ô, châu Rí cho Đại Việt để làm sính lễ, được vua Trần Anh Tông tiếp nhận và đổi tên là Thuận Châu (Quảng Trị) và Hóa Châu (Thừa Thiên).
Năm 1402, Hồ Quý Ly sai binh tướng đánh sang Chiêm Thành làm vua Chiêm sợ hãi nên dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) cho Đại Việt (tên nước là Đại Ngu). Quý Ly lại đòi thêm đất Cổ Lũy (Quảng Nghĩa).Từ đó người Chiêm Thành ở các vùng đã sáp nhập vào Đại Việt lần lượt bỏ đi vào sống gần vùng th ủy Chân Lạp (miền Nam VN ngày nay).
Năm 1470, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) lại đánh sang Chiêm Thành để ngăn cản âm mưu của vua Chiêm là Trà Toàn toan sáp nhập Chiêm Thành vào nước Tàu. Trận nầy quân nhà Lê bắt được vua Chiêm là Trà Toàn.Đại Việt lấy thêm vùng đất Đồ Bàn & Đại Chiêm của Chiêm Thành lập ra đạo Quảng Nam (tức là tỉnh Bình Định ngày nay).Vua Lê muốn làm cho nước Chiêm thế lực yếu đi, mới chia Chiêm Thành ra làm 3 v ù ng t ư ự  tr ị là Hóa Anh (Phú  Yên và  Khánh H òa), Chiêm Thành (Ninh Thuận và Bình Thuận), và Nam Phan (hay Nam Bàn) là vùng Cao Nguyên (đất ở trên cao), tức Gia Lai (Pleiku), Đắc Lắc (Buôn Mê Thuột) và Lâm Đồng (Đà Lạt).

Lúc đó (1471) phía nam là đất đang bồi (tức là đất Phù Nam chứ không phải nước Phù Nam) không ở được. Dân đi biển tá túc ở đó được gọi là dân Côn Man hay Bồn Man. Man là thiếu văn hóa, tức dân ANH CHỊ....CÔN là gậy, còn Bồn là cồn đất nổi trên mặt nước.
Lúc này bờ biển chạy từ Bình Thuận (Phan Thiết) tới tận Phnom Penh và biển hồ Tonlé Sap.... Đảo Phú Quốc lúc đó cách xa bờ biển, phải khẩn hoang mới thành vùng đất sinh sống được của dân Chài Lưới (VI ỆT).
Người Chân Lạp ở ven biển (miền xuôi) được gọi là Thủy Chân Lạp, còn ở trên cao (mạn ngược) thì gọi là Lục Chân Lạp (hay Hỏa Chân Lạp,  vì tính nết nóng nảy như lửa)

Ba vùng này được hoàn toàn tự do về việc tự trị; nhưng không được lập quân đội và không có quyền ngoại giao để cầu cứu nhà Minh bên Tàu hay các nước khác trên thế giới...Do đó sự hội nhập không có vấn đề đối kháng. Mọi người đều an vui làm ăn yên ổn, dưới sự giám sát của Triều Đình Đại Việt.
õ
B.-CÁC CHÚA NGUYỄN CÓ CÔNG MỞ NƯỚC VỀ NAM
Thời kỳ Trịnh Nguyễn Phân Tranh, tuy phải chống lại quân chúa Trịnh từ phương Bắc, các chúa Nguyễnvẫn bắt đầu một công cuộc mở mang bờ cõi nước Việt về phía Nam bắt đầu từ năm 1611.
Vào năm 1611 nầy biên giới phía Nam của VN mới đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa hai tỉnh Bình Định và Phú Yên hiện nay). Còn lại là 3 vùng tự trị của dân Chiêm như đã nói ở trên.
Lần lượt cai trị vùng đất thường gọi là Đàng Trong (nửa nước phía Nam) có tất cả là 10 vị chúa Nguyễn, nhưng ở đây chỉ chú trọng đến các vị Chúa có công mở nước từ Bình Định đến Cà Mau ngày nay.
õ
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên(chúa Sãi) 1613-1635:
Chuẩn bị cho công cuộc mở rộng đất nước về phía nam
Năm 1602, Nguyễn Phúc Nguyên được cha là Nguyễn Hoàng cho làm trấn thủ dinh Quảng Nam, một vùng “đất tốt, dân đông, sản vật giàu có” và giữ vị trí “yết hầu của miền Thuận Quảng”.
Bối cảnh chính trị- kinh tế thế giới và khu vực giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để có thể khai thác và đánh thức nguồn lực trong nước.
Tại vùng trấn nhậm, Nguyễn Phúc Nguyên đã mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong nước, xây dựng Hội An thành thương cảng quốc tế phồn thịnh.
Trong số các nước phương Đông, Nguyễn Phúc Nguyên đặc biệt quan tâm đến Nhật Bản.
Từ năm 1593, nhà cầm quyền Nhật Bản là Mạc Phủ Toyotomi đã bắt đầu thi hành chính sách Châu Ấn Thuyền (Shuinsen) tức là cấp giấy phép cho thuyền buôn mở rộng quan hệ thông thương với các nước Đông Nam Á.
Từ năm 1604 đến 1634 (tương đương với thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên được giao làm trấn thủ dinh Quảng Nam từ 1602 và lên ngôi chúa từ 1613 đến 1635), Mạc Phủ đã cấp 331 giấy phép đến 19 cảng thuộc khu vực Đông Nam Á thì riêng cảng Hội An đã có 86 thuyền được cấp giấy phép nầy (chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á.
Bên cạnh thuyền buôn Nhật Bản, thuyền buôn Trung Hoa, Đông Nam Á và nhất là thuyền buôn phương Tây cũng cập bến Hội An ngày một nhiều hơn và thường xuyên hơn.
Vì vậy, chúa Nguyễn Phúc Nguyên trong thực tế phải được coi là người Việt Nam đầu tiên thực sự thành công trong chiến lược mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài và thúc đẩy kinh tế hàng hoá và đô thị trong nước phát triển lên một trình độ mới từ khi chưa kế vị ngôi Chúa của Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng. Đây chính là tiềm lực căn bản cho việc mở nước về phương Nam của các Chúa Nguyễn.

Bản đồ Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650
õ
Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) 1648-1687
Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom Reachea lên ngôi. Batom Reachea con trưởng của quận chúa Ngọc Vạn, tức Khmer lai Việt. Ngọc Vạn là con gái Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi).
Đế đáp lại ân tình này, vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và chánh thức chấp nhận chủ quyền người Việt trên mảnh đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa.
Tại khu vực này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã phải cử một đội quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.
Vào năm 1674, vua Batom-Rachea bị hành thích chết, hoàng thân Nặc Ông Đài đòi quyền kế vị bằng cách cầu viện quân Xiêm-La (Th ái Lan) sang gây lộn xộn ở vùng Đồng Nai và đòi tăng thu thuế của dân Việt trong vùng; nên chúa Hiền Vương cho quân vào Chân Lạp phế truất Nặc Ông Đài lập Nặc Ông Thu (Ang Sor) làm Chính Vương và đưa ANG-NON là con thứ của Hoàng Thái Hậu Ngọc-Vạn làm Phó Vương.
Phó Vương đóng đô ở thành Sài Côn (sau nầy là Sài Gòn).  Từ đó về sau con cháu dòng họ Norodom nầy thay nhau làm Vua Chân Lạp và họ đều mang dòng máu của quận chúa Ngọc Vạn.
Năm 1679 có các cựu quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây - Trung Quốc), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình là tổng binh châu Cao, Lôi, Liêm (Quảng Đông - Trung Quốc) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Đại Việt. Chúa Nguyễn Phúc Tần nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho họ vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Những người này cùng với những lưu dân người Việt định cư trước đó đã chia nhau ở đất Đồng Nai, Biên Hòa, Mỹ Tho (Tiền Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương Tây, Nhật Bản, Chà Và đến buôn bán khá đông. Đây là những vị tổ sang lập ra thành phố Chợ Lớn ngày nay.
Năm 1680, Mạc Cửu, một đại thần nhà Minh bên Tàu, người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang vùng tận cùng của đất Phù Nam, là nơi chưa ai khai phá đkhai khẩn và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên.
Lúc này chúa Nguyn thiếu người và dân Chân Lạp chưa đầy 3 triệu nên chưa ai nghĩ tới mở rộng bờ cõi cả, vì thế  nên Mạc Cửu ung dung mở rộng đất đai của mình gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc làm nơi nghỉ chân của các thương thuyền; phần thì trao đổi hàng hóa cho nhau, phần thì du hí lầu xanh hay sòng bạc.
Năm 1708, đang ăn nên làm ra thì giặc cướp Xiêm-La và Chân-Lạp đến quấy phá nên các thương thuyền bỏ đi. Lúc này Mạc Cửu mới hiến đất cho Chúa Nguyễn để phục hồi lại nền kinh tế suy sụp, mất nguồn lợi nhuận này là tiêu vong.
Vì thiếu người nên chúa Nguyễn phong ngay cho Mạc Cửu làm Tổng binh. Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ được nối nghiệp cai quản đất Hà Tiên, đã đắp thành, mở chợ, làm đường
và rước thầy về dạy Nho học.

Chúa Nguyễn Phúc Chu (Minh Vương) 1691-1725
Vì  cần đường thông thương với các châu mới khai phá ở đất Phù Nam nên năm 1693 chúa Nguyễn đổi xứ  Chiêm Thành (vùng tự  trị  từ  năm 1471) làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, nhưng bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành. Đến năm 1697 chúa Nguyễn lấy Phan Lý (Phan Rí), Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và Hòa Đa. Từ năm 1697 đó xứ Chiêm Thành mất hẳn quyền tự trị.
Bà Tranh (Po Saot) là đương kim thủ lãnh xứ Chiêm Thành tự trị.
Tuy nhiên, do sự kháng cự của người vùng Chiêm Thành và cũng cần tập trung cho việc khai phá đất Nam bộ nên qua năm 1697, chúa Nguyễn đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, và dành cho người Chăm cơ chế tự trị như cũ; nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn…. Bắt không được thì tha làm phúc.
Đến năm 1832 sau này, vua Minh Mạng xóa bỏ cơ chế tự trị trên và lập thành tỉnh Bình Thuận.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu chia đất Đông Phố (Gia Định) ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình.
Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phiên Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị.
Chúa Nguyễn lại chiêu mộ thêm những người lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn. Năm 1699 vua Ang Em của Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm chiếm đất này, nhưng bị thất bại.
Chúa Nguyễn Phúc Chú 1725-1738
Năm 1729 Chúa Nguyễn Phúc Chú cho đặt sở Điều Khỉển ở Gia Định, lấy cớ quân Chân Lạp hay sang quấy nhiễu.
Từ năm 1735 - 1739 Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong
Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre, dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) 1738-1765
Vào năm 1744 chúa Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng hiệu Võ Vương.
Năm 1755, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, nên chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên.
 Năm 1756, Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân AnGò Công) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.
Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp.
Về sau, Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa thế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn (Outey II), con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn.
Sau đó không lâu Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn riêng Mạc Thiên Tứ, Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản, 5 phủ này về sau khi Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã cắt trả về cho Cao Miên, ngày nay là 2 tỉnh TakéoKampot.



 [Sáp nhập Tây Nguyên
Từ thời các chúa Nguyễn, các bộ lạc ở Tây Nguyên mà mạnh nhất là bộ tộc người Gia Rai với các vị tiểu vương Thủy Xá, Hỏa Xá đã từng triều cống chính quyền Đàng Trong, trước đây khu vực này là vùng độn giữa các nước Chiêm và Chân Lạp, nó không thực sự thuộc về bên nào mà khi thì thuộc Chiêm, khi thì Chân Lạp, thậm chí có lúc một phần thuộc về Ai Lao tùy thuộc vào sức mạnh từng thời kỳ của các nước này.
Tuy nhiên vào năm 1830, vua Minh Mạng chánh thức sát nhập vùng đất Tây Nguyên ngày nay và đưa vào bản đồ Đại Nam, mặc dù không hề có người Kinh sinh sống cũng như quan lại cai trị. Tây Nguyên lúc đó được xem là vùng tự trị của Việt Nam.]
õ
Kinh tế Đàng Trong thời kỳ mở nước về phương Nam
Do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây, thủ công nghiệp Đàng Trong không chỉ phát triển về quy mô mà còn xuất hiện nhiều ngành nghề mới.
Các chúa Nguyễn Đàng Trong xây dựng các công xưởng, quan xưởng theo truyền thống từ thời nhà Lý. Các công xưởng, quan xưởng này nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động công nghiệp, xây dựng và tiêu dùng của chính quyền. Làm việc tại công xưởng là những thợ giỏi, khéo được huy động từ các địa phương theo chế độ thời gian dài, ngắn khác nhau.
Đóng tàu, thuyền
Chúa Nguyễn lập những xưởng đóng tàu, thuyền quy mô lớn, tiêu biểu nhất là xưởng ở Hà Mật có 400 người.Xưởng này đã sản xuất ra những loại thuyền có trọng tải lên tới 400 tấn. Năm 1674, chúa Nguyễn có 133 thuyền từ các xưởng này, mỗi thuyền có thể chở được 64 người.
Đúc tiền
Việc đúc tiền Đàng Trong bắt đầu khá muộn, từ năm 1736 dưới thời Nguyễn Phúc Chú. Tiền được đúc tại Cục đúc tiền dù tốn kém nhưng không thông dụng.
Năm 1746, Nguyễn Phúc Khoát mở Cục đúc tiền ở Lương quán, đúc tiền kẽm Thiên minh thông bảo. Trong vòng 2 năm, nơi đây đã đúc 72.396 quan tiền.
Năm 1775, quân Trịnh vào đánh chiếm Phú Xuân đã gom các vật dụng bằng đồng của chúa Nguyễn ở phía hữu trấn dinh để đúc tiền. Từ công thức: 100 cân đồng + 15,12 cân thiếc + 43,1 cân chì đúc được 38 quan tiền. Tổng cộng số tiền đúc năm 1776 là 30.362 quan.
Đúc súng
Chúa Nguyễn cho mở xưởng đúc súng từ năm 1631, hiện nay vẫn còn di tích ở Huế. Xưởng này có sự trợ giúp của người Bồ Đào Nha là Joao da Cruz. Tổng số thợ làm việc trong xưởng là 80 người, từ hai xã Phan Xá, Hoàng Giang thuộc huyện Phong Lộc.
Để đúc 1 khẩu đại bác cần 15 khối sắt, 10 cân gang và 10 quan tiền than. Nhờ xưởng đúc này, chúa Nguyễn có hơn 200 khẩu súng vào năm 1642, tạo nên sức mạnh góp phần chống trả thành công những cuộc tiến công của chúa Trịnh.
Khai thác mỏ
Đàng Trong không có nhiều tài nguyên khoáng sản như Đàng Ngoài: không có mỏ đồng, chỉ có một số mỏ sắt và mỏ vàng. Mỏ sắt ở Phú Bài (huyện Phú Vang), trang Điển Phúc thuộc Bố Chính. Các chúa Nguyễn kiểm soát chặt chẽ việc khai thác vàng. Các quan ở ty Ngân tượng và Nội lệnh sử trông coi việc nấu vàng và thu thuế.
Các ngành khác
Ngoài ra, các chúa Nguyễn còn có những công trường lớn, chiêu tập thợ các ngành nghề như thợ mộc, thợ nề, thợ đá, thợ sơn...Những người thợ được phân thành các Ty theo ngành nghề như Ty thợ chạm, Ty thợ may, Ty thợ thêu, Ty thợ tiện, Ty thợ sơn, Ty thợ giày, Ty thợ đúc, Ty thợ lọng, Ty thợ thiếc...Nhìn chung trình độ của thợ thủ công tại các công xưởng thế kỷ 18 đã cao hơn các thời kỳ trước.
Tiểu thủ công nghiệp
Tiểu thủ công nghiệp chính yếu phục vụ đời sống sinh hoạt của dân và xuất khẩu.
Nghề làm gốm (đất nung) nổi tiếng tại các làng Lộc Thượng, Phú Vinh (Quảng Nam), Mỹ Thiện (Quảng Ngãi). Nghề gốm được chuyên môn hóa, tạo ra nhiều sản phẩm khá tinh xảo.
Nghề dệt tạo ra các sản phẩm như lụa, gấm, sa. Các làng xã thuộc Điện Bàn, Thăng Hoa thạo nghề dệt lụa và vóc, lĩnh, đoạn có màu hoa đẹp. Sản phẩm tại đây là sản phẩm xuất khẩu chính của Đàng Trong sang Trung Quốc, Nhật Bảnchâu Âu.
Phú Xuân có nghề dệt gấm chuyên cung cấp cho chúa Nguyễn.
Vùng Quảng NamQuảng Ngãi là hai trung tâm sản xuất đường, tạo ra các loại đường trắng, mịn, tinh khiết và đường phổi, đường phèn nổi tiếng. Nghề làm đường ở Đàng Trong nổi tiếng hơn ở Đàng Ngoài và là một trong các mặt hàng xuất khẩu chính.
Ngoài các nghề trên, trong nhân dân còn có nghề làm giấy tại làng Đại Phú ở Quảng Bình, Đốc Sở ở Thừa Thiên; nghề dệt mã vĩ và nghề thêu ở Quảng Xuyên huyện Hương Trà. Nhân dân thường tổ chức ra thành các tổ, hội nghề nghiệp.
Nông nghiệp Đàng Trong thời Lê trung hưng
Nông nghiệp Đàng Trong phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp của miền nam nước Đại Việt thời Lê trung hưng, dưới quyền cai quản thực sự của chúa Nguyễn, trong khoảng thời gian từ 1600 đến 1777.
Chế độ ruộng đất
Từ năm 1558, khi mới vào cai quản Thuận-Quảng, Nguyễn Hoàng chưa định ngạch thuế khóa cho ruộng đất nông nghiệp.
Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý việc thu thuế đất này. Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các để thu thuế.
Năm 1669, Nguyễn Phúc Tần theo đề nghị của Vũ Phỉ Thừa, sai Hồ Quảng Đại đi đo đạc ruộng đất ở các huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc.
Ruộng đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công Đàng Trong chia làm “quân điền trang” và “quân đồn điền” thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cấp ruộng này cho người thân thích và công thần. Người thân thích nhà chúa được 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu.
Ruộng đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần gấp 3 lần.
Ruộng đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách kích thích sự phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng nhiễm mặn, rừng rú đều được cải tạo thành các làng xã mới. Ruộng đất tư ở vùng Thuận Quảng phân tán, chủ yếu là loại vừa và nhỏ.
Chính sách cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán vào nam khai phá đất mới đã tạo điều kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Đồng thời, việc kiêm tính ruộng đất cũng xảy ra ở vùng Nam Bộ mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn, có ruộng đất hàng ngàn mẫu.
Thời kỳ đầu, các chúa Nguyễn chưa nắm được số ruộng đất, thuế khóa còn nhẹ nên đời sống nông dân khá cao. Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế. Phép thu thuế của Đàng Trong không phải quá nặng, nhưng các quan lại coi việc thu quá nhiều, hay phiền nhiễu nhân dân, truy xét rà soát nhiều và tham nhũng khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề.
Sản xuất nông nghiệp
Từ đầu thế kỷ 17, Nam Bộ còn là vùng đất hoang vu. Từ khi khai phá vùng này, các chúa Nguyễn có chính sách quan tâm đến nông nghiệp. Hàng loạt con sôngkênh được đào vét ở Thuận Quảng, điển hình như kênh Trung Đan và Mai Xá. Sang thế kỷ 18, những vùng đất hoang vu ở Nam Bộ đã trở thành ruộng phì nhiêu, ruộng tốt bậc nhất Đại Việt.
Nghề nông Đàng Trong đã tạo ra 26 giống lúa nếp và 23 giống lúa tẻ. Ngoài ra, nông dân còn trồng khoai, ngô, hạt bo bo (tức ý dĩ), vừng (gọi là ) và các cây ăn quả gồm mãng cầu (na), mít, xoài, chuối; các loại rau.
TRI  TÂN
Giải quyết vấn nạn của dân tộc là việc làm của tất cả mọi hiền tài của đất nước, vì thế nên Ban Học Vụ chỉ đưa ra ý kiến khơi mào cho cuộc thảo luận về khúc lịch sử này mà thôi.
1.      Chúng ta rút tỉa được gì trong công tác khẩn hoang của các chúa Nguyễn, dưới danh từ quen tai là « mở mang bờ cõi » về phương Nam?
2.      Sau khi Việt Cộng ra đi, chúng ta phải làm gì để giải quyết vấn nạn của đất nước do Việt Cộng để lại như : Xung đột sắc tộc; Lòng người phân tán; Văn hóa suy đồi thảm bại; Kinh tế phá sản?
3.      Vấn đề nào là chủ chốt cần phải giải quyết cấp kỳ ?
a.       Canh Tân con người ;
b.     Canh Tân đất nước hay
c.      Đào tạo một đội ngũ Giáo Sư có khả năng về Canh Tân Tư Tưởng để xây dựng con người Việt tốt như chương trình của nhà Tây Sơn với sự cộng tác của La Sơn Phu Tử (hiệu danh do Hoàng Đế Quang Trung tặng cho ông) và nhóm Ngô Thì Nhiệm ?
------------------------------------------------

PHẦN 2 :  THAM  LUẬN

Công Nghiệp Mở Nước Về Phương Nam Của Chúa Nguyễn



Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo

A.- BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Nhà Lê truyền thừa được 99 năm, 10 đời Vua, từ Lê Thái Tổ (1428-1433) đến Lê Cung Hoàng (1524-1527).

Nam Triều, Bắc Triều (1527-1592)
Năm 1527 Mạc Đăng Dung đảo chính giết vua Lê Cung Hoàng, nắm quyền cai trị lập ra triều đại nhà Mạc.Họ Mạc làm vua từ năm 1527 đến năm 1592 (đời vua cuối là Mạc Mậu Hợp) truyền được 5 đời trong 65 năm, nhưng không giữ được quyền bính nên phải rút lên Cao Bằng, nhờ Nhà Minh bên Tàu bảo hộ để tiếp tục hùng cứ ở vùng đất biên giới Hoa Việt (Cao Bằng), đến năm 1667 mới dứt hẳn. Triều Đại nhà Mạc gọi là Bắc Triều.                              .
Sáu năm sau ngày vua Lê Cung Hoàng bị giết tướng Nguyễn Kim và con rễ là Trịnh Kiểm giúp nhà Lê trung hưng ở vùng Thanh Hóa, bằng cách lập con út vua Lê Chiêu Tông lên làm vua xưng hiệu Lê Trang Tông (1533-1548), truyền được thêm 17 đời, đến Lê Chiêu Thống (1787-1788) mới chấm dứt. Như vậy, tổng công trước sau nhà Lê truyền được 354 năm, với 27 đời vua (6 năm không có vua Lê, từ 1527 đến 1533 là thời gian Mạc Đăng Dung mới chiếm ngôi). Sử gọi nhà Lê Trung Hưng trong giai đoạn đánh nhau với họ Mạc 65 trong suốt
65 là Nam Triều.

Trịnh Nguyễn Phân Tranh
Nhà Lê trung hưng, nhưng quyền cai trị thật sự lại thuộc về họ Trịnh và họ Nguyễn. Cả hai đều xưng Vương, tục gọi là chúa Trịnh và chúa Nguyễn: Chúa Nguyễn ở miền Nam hay còn gọi là Đàng Trong, chúa Trịnh ở miền Bắc hay còn gọi là Đàng Ngoài, cùng lấy tiếng phò Lê, nhưng lại nắm hết binh quyền. Vua Lê chỉ làm vua tượng trưng.
Chúa Trịnh và chúa Nguyễn lấy sông Linh Giang (sông Gianh) – Quảng Bình làm ranh giới cho Đàng Trong & Đàng Ngoài, hai Đàng nầy tranh giành đất đánh nhau 7 lần trong vòng 45 năm, khiến dân chúng hai bên đều phải chịu cực khổ, tổn thất về sinh mạng, tài sản không biết bao nhiêu mà kể. Thời kỳ nầy sử gọi là Trịnh Nguyễn Phân Tranh, tuy rất nhiễu nhương, nhưng riêng các chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại mưu cầu mở rộng giang sơn Đại Việt hướng về Nam.
Lược sử việc Nam tiến trước thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh (1069-1470)
Vào thế kỷ thứ 2 (năm 102, tại vùng Lâm Ấp ở phía Nam quận Nhật Nam (khoảng Nghệ An, Hà Tĩnh vào đến Phan Thiết của Nam Viêt ngày nay), do việc Khu Liên người huyện Tượng Lâm (phía nam quận Nhật Nam) nổi lên giết huyện lệnh của nhà Đông Hán, xưng làm vua, và lập ra nước nước Lâm Ấp. Đến đời nhà Đường, nước Lâm Âp đổi thành Hoàn Vương Quốc,
và đến năm 808 đổi là Chiêm Thành (Champa).

Năm 1069 vua Lý Thánh Tông (1054-1072) đánh sang Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Vua Chiêm xin dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Quảng Bình) cho Đại Việt.

Năm 1306, vua Chiêm là Chế Mân xin cưới công chúa Huyền Trân (con vua Trần Nhân Tông, em vua Trần Anh Tông), và xin dâng 2 châu Ô, châu Rí cho Đại Việt để làm sính lễ, được vua Trần Anh Tông tiếp nhận và đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu (Quảng Trị và
Thừa Thiên ngày nay).                                                       .

Năm 1402 Hồ Quý Ly sai binh tướng đánh sang Chiêm Thành làm vua Chiêm sợ hãi nên dâng đất Chiêm Động (Quảng Nam) cho Đại Việt (tên nước là Đại Ngu). Quý Ly lại đòi thêm đất Cổ Lũy (Quảng Nghĩa).Từ đó người Chiêm Thành ở các vùng đã sáp nhập vào Đại Việt lần lượt bỏ đi vào sống gần vùng Thủy Chân Lạp (miền Nam VN ngày nay).                           .

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) lại đánh sang Chiêm Thành để ngăn cản âm mưu của vua Chiêm là Trà Toàn toan sáp nhập Chiêm Thành vào nước Tàu. Trận nầy quân nhà Lê bắt được vua Chiêm là Trà Toàn.Đại Việt lấy thêm vùng đất Đồ Bàn & Đại Chiêm của Chiêm Thành lập ra đạo Quảng Nam (tức là tỉnh Bình Định ngày nay).Vua Lê muốn làm cho nước Chiêm thế lực yếu đi, mới chia Chiêm Thành ra làm 3 nước là Hóa Anh (Phú Yên và Khánh Hòa); Chiêm Thành (Ninh Thuận và Bình Thận);Nam Phan tức Nam Bàn là vùng Tây Nguyên ngày hôm nay). Đây là 3 vùng tự trị, không có quân đội và ngoại giao; nhưng vì lý do chánh trị nên sách chép là 3 nước...gi ống như vua Trà Toàn bị chém đầu thì ta gọi là Tướng Trà Toàn để việc hội nhập nước Chiêm vào nước Đại Việt cho xuôi chèo, mát mái.

B.-CÁC CHÚA NGUYỄN CÓ CÔNG MỞ NƯỚC VỀ NAM
Thời kỳ Trịnh Nguyễn Phân Tranh, tuy phải chống lại quân chúa Trịnh từ phương Bắc, các chúa Nguyễnvẫn bắt đầu một công cuộc mở mang bờ cõi nước Việt về phía Nam bắt đầu từ năm 1611.Vào năm 1611 nầy biên giới phía Nam của VN mới đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa hai tỉnh Bình Định và Phú Yên hiện nay).
Lần lượt cai trị vùng đất thường gọi là Đàng Trong (nửa nước phía Nam) có tất cả là 10 vị chúa Nguyễn, nhưng ở đây chỉ chú trọng đến các vị Chúa có công mở nước từ Bình Định đến Cà Mau ngày nay.
Chúa Nguyễn Hoàng (Đoan Quận Công) 1600-1613
Trước thời Quang Trung, danh tướng kiệt xuất về quyết tâm dựng nghiệp mở nước và phát triển đất nước là Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng, người quyết chí vào Nam dựng nghiệp theo lời cố vấn của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với hàng loạt những dự định lớn lao. Ông toàn tâm, toàn ý chăm lo phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về mọi mặt, chuẩn bị những buớc đi xa hơn cho các thế hệ con cháu. Lê Quý Đôn, đã ca ngợi như sau: “Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ nghiêm minh, không ai dám lừa dối… chính sự khoan hoà, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, phép tắc công bằng, nghiêm giữ quân sĩ có kỷ luật, cấm cản kẻ hung bạo. Quân dân hai xứ đều mến yêu kính phục; thay đổi phong tục xấu, ai ai cũng cám ơn và mến đức. Chợ không có hai giá, trong dân gian không có trộm cướp, đêm không phải đóng cổng; thuyền ngoại quốc đến buôn bán, việc giao dịch phân minh, ai cũng cố gắng, toàn cõi nhân dân an cư lạc nghiệp. Hàng năm nộp thuế má để giúp việc quân, việc nước, triều đình cũng được nhờ”.
Mục tiêu của Nguyễn Hoàng khi quyết định vào Nam dựng nghiệp là xây dựng một vương triều độc lập với triều đại mục nát Lê-Trịnh và mở nước về Nam. Tuy nhiên do điều kiện và hoàn cảnh lúc đó, ông phải hết sức kín đáo để tránh mọi sự hoài nghi của chúa Trịnh. Trên danh nghĩa và cả trong thực tế, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê-Trịnh, vẫn làm tướng tiên phong của Nam Triều đi đánh dẹp các dư đảng của nhà Mạc ở Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây, Thái Nguyên… Cuối năm 1600, sau khi quyết định trở về ở hẳn Thuận Hoá, đẩy mạnh xây dựng chính quyền độc lập và không nghĩ đến việc quay trở về yết kiến vua Lê nữa, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ hoà hiếu với chính quyền Lê-Trịnh, hàng năm vẫn phải nộp thuế má và xin kết nghĩa thông gia với Trịnh Tùng. Sự nghiệp xây dựng một vương triều độc lập của Nguyễn Hoàng tuy đã có cơ sở bước đầu nhưng vẫn còn hết sức mong manh. Đây chính là điều ông trăn trở nhất và cũng là sự uỷ thác cao nhất cho vị chúa Nguyễn thứ nhì là Nguyễn Phúc Nguyên trước lúc qua đời.
Năm 1611, vua Po Nit của Champa tiến quân đánh tỉnh Quảng Nam gây hấn cùng Đại Việt.Chúa Nguyễn Hoàng phái tướng Văn Phong đem quân vào đánh nước Champa (Chiêm Thành) lấy một vùng đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc tỉnh Phú Yên.
Theo sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên thì chúa Nguyễn Hoàng di chúc lại cho con trai là Nguyễn Phúc Nguyên và triều thần như sau: “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi Sơn ở Đèo Cả - Phú Yên] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất nầy để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) 1613-1635:
Chuẩn bị cho công cuộc mở nước sang vùng đất Phù Nam về sau
Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ 6 của chúa Nguyễn Hoàng, sinh năm Quý Hợi– 1563. Thuở nhỏ Nguyễn Phúc Nguyên tỏ ra thông minh, tài trí hơn người. Lớn lên ông càng bộc lộ tài năng kiệt xuất,  ngày ngày thường cùng các tướng bàn luận việc binh, tính toán được nhiều việc đại sự, nên Đoan Quận Công biết là có thể trao phó nghiệp lớn cho Nguyên. Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) còn gọi là chúa Sãi, khi được nối nghiệp có tướng giỏi là ông Đào Duy Từ phò tá. Vợ Nguyễn Phúc Nguyên là con gái Mạc Kính Điển sinh được 5 con trai và 3 cô gái là Ngọc Liên, Ngọc Vạn và Ngọc Khoa. Khi được nối ngôi Chúa, Nguyễn Phúc Nguyên đã không phụ lòng tin của cha, thực hiện đầy đủ và trọn vẹn tất cả những gì mà người cha- chúa Nguyễn Hoàng - trông đợi và uỷ thác.
Thực hiện di chúc của cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã từng bước ly khai hẳn với triều đình Lê-Trịnh, không chịu nộp thuế, không về chầu triều đình. Việc Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách tách Thuận Quảng ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Lê-Trịnh không phải chỉ là hành động chia rẽ hay phong kiến của dòng họ Nguyễn, mà chính là ước nguyện muốn thực thi những chính sách cai trị khác với đường lối chính trị của Đàng Ngoài lúc đó đang theo xu hướng hoài cổ rập khuôn thời Lê sơ, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan việc làm của chúa Nguyễn Phúc Nguyên có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc.
Năm 1613 lên ngôi Chúa kế vị thì ngay năm sau, năm 1614, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cải tổ quan chế và quân chế của Đàng Trong thành bộ máy hữu hiệu hơn Đàng ngoài. Thuế khóa và nông chế cũng được chúa Nguyễn Phúc Nguyên quy định mới hơn.
Đầu năm sau, năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện được ban hành.
Năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên lấy lý do chúa Trịnh vô cớ gây chiến đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc nộp cống thuế cho chính quyền Lê-Trịnh. Năm 1630, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc phong của chúa Trịnh Tráng. Đây không chỉ là sự khẳng định dứt khoát chính quyền chúa Nguyễn ở phía Nam là chính quyền độc lập, cắt đứt hẳn mọi quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê-Trịnh ở phía Bắc, mà còn đánh dấu quá trình chuyển đổi căn bản từ một chính quyền địa phương, mang nặng tính chất quân sự của nhà Lê-Trịnh sang một chính quyền dân sự của chúa Nguyễn. Đặc biệt trong quan hệ đối ngoại, chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa Nguyễn đầu tiên tự xưng là An Nam Quốc vương, quan hệ với các nước trong tư thế của một quốc gia độc lập có chủ quyền. GS Nhật là Kawamoto Kuniye cho rằng điều này đã “biểu lộ nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn Phúc Nguyên trước thời đại mới”.
Cải cách hành chính của Nguyễn Phúc Nguyên là cải cách có ý nghĩa then chốt, đặt cơ sở cho những bước tiến xa hơn và vững chắc hơn của triều đình chúa Nguyễn nói riêng và đất nước về sau nói chung.
Năm 1602, Nguyễn Phúc Nguyên được cha cho làm làm trấn thủ dinh Quảng Nam, một vùng “đất tốt, dân đông, sản vật giàu có” và giữ vị trí “yết hầu của miền Thuận Quảng”. Bối cảnh chính trị- kinh tế thế giới và khu vực giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để có thể khai thác và đánh thức nguồn lực trong nước.
Tại vùng trấn nhậm, Nguyễn Phúc Nguyên đã mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong nước, xây dựng Hội An thành thương cảng quốc tế phồn thịnh.
Trong số các nước phương Đông, Nguyễn Phúc Nguyên đặc biệt quan tâm đến Nhật Bản. Ông không chỉ xúc tiến quan hệ giao thương với tư cách chính thức của vị đứng đầu nhà nước An Nam (An Nam Quốc vương), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương nhân đến sinh sống, buôn bán ở Hội An, mà còn cho con gái yêu quý của mình là quận chúa Ngọc Liên sang làm dâu một gia đình thương nhân Nhật Bản ở Nagasaki để thắt chặt quan hệ với giới đại thương Nhật. Người con rể của ông là Araki Sotaro vốn thuộc dòng dõi Samurai ở Kumamoto đi thuyền mang cờ hiệu của công ty Đông Ấn Hà Lan VOC đến cập cảng Hội An vào năm 1619. Theo sách Ngoại phiên thông thư (quyển 13, tr 87-88) thì cũng đúng vào năm đó chúa Nguyễn Phúc Nguyên quyết định gả con gái của mình cho nhà lái buôn Nhật Bản tài ba này. Ít lâu sau cô đã theo người chồng Nhật Bản về định cư ở Nagasaki. Cô công chúa họ Nguyễn có cuộc sống thật sự hạnh phúc, đắc ý cùng chồng, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trên đất Nhật Bản.
Từ năm 1593, nhà cầm quyền Nhật Bản là Mạc Phủ Toyotomi đã bắt đầu thi hành chính sách Châu Ấn Thuyền (Shuinsen) tức là cấp giấy phép cho thuyền buôn mở rộng quan hệ thông thương với các nước Đông Nam Á. Ngay sau đó không lâu, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã cho mở rộng thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính không chỉ cho riêng Đàng Trong mà còn cho toàn khu vực tương đương với Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, đón nhiều nhất số thuyền buôn Nhật Bản được cấp giấy phép chính thức. Theo nghiên cứu của GS. Iwao Seiichi thì từ năm 1604 đến 1634 (tương đương với thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên được giao làm trấn thủ dinh Quảng Nam từ 1602 và lên ngôi chúa từ 1613 đến 1635), Mạc Phủ đã cấp 331 giấy phép đến 19 cảng thuộc khu vực Đông Nam Á thì riêng cảng Hội An đã có 86 thuyền được cấp giấy phép nầy (chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á.
Bên cạnh thuyền buôn Nhật Bản, thuyền buôn Trung Hoa, Đông Nam Á và nhất là thuyền buôn phương Tây cũng cập bến Hội An ngày một nhiều hơn và thường xuyên hơn. Giáo sĩ dòng Tên người Ý là Christoforo Borri nhận xét: “Chúa Đàng Trong [chúa Nguyễn Phúc Nguyên] không đóng cửa trước một quốc gia nào, Ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hoá của họ”. Trong bối cảnh giao lưu buôn bán quốc tế tấp nập và sôi động như vậy, thương cảng Hội An vào những thập kỷ đầu thế kỷ XVII đã đột khởi trở thành một đô thị và hải cảng quốc tế tiêu biểu ở khu vực châu Á.Christoforo Borri, sống tại thị trấn Nước Mặn (nay thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) những năm 1618-1622, đã mô tả về Hội An như sau: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam… Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật người Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là Faifo (Hội An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Hoa và một phố người Nhật. Mỗi phố có một khu vực riêng, có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Hoa có luật lệ và phong tục của người Hoa và người Nhật cũng vậy”. Đây là  sự phát triển trội vượt, một hiện tượng kinh tế - xã hội hết sức độc đáo chưa từng xuất hiện trước đó, cũng không thấy lặp lại ở bất cứ đô thị nào trên đất Việt Nam nhiều thế kỷ tiếp sau.
Công ty Đông Ấn của Anh Quốc thì cho rằng: “Chúa Nguyễn Phúc Nguyên xây dựng Hội An trở thành thương cảng quốc tế phồn thịnh thời bấy giờ”.
Vì vậy, chúa Nguyễn Phúc Nguyên trong thực tế phải được coi là người Việt Nam đầu tiên thực sự thành công trong chiến lược mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài và thúc đẩy kinh tế hàng hoá và đô thị trong nước phát triển lên một trình độ mới từ khi chưa kế vị ngôi Chúa của Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng. Đây chính là tiềm lực căn bản cho việc mở nước về phương Nam của các Chúa Nguyễn.
õ
Trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở vùng đất ngày nay là Bà Rịa, Đồng Nai, Sài Gòn vốn là đất của thủy Chân Lạp, nhưng không gặp phản kháng gì đặc biệt.
Năm 1620 vua nước Chân Lạp (Cao Mên) là Prey Chetta, vì muốn chống lại sự đô hộ của vương quốc Xiêm, đã đến Thuận Hoá cầu thân và xin cưới Quận chúa Ngọc Vạn, con của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Sau đó, từ năm 1623 do ảnh hưởng của quận chúa Ngọc Vạn - lúc này đã là Hoàng Hậu Sam Đát (AngCuv) của nước Chân Lạp - chúa Nguyễn đã xin cho người Việt được chính thức cư ngụ tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Kobey (Bà Rịa), được đóng quân bảo vệ và lập cơ quan thu thuế của kiều dân VN tại đây, mở đầu trang sử thành lập đất Miền Nam. (tham khảo Tập San Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai - Cửu Long, số 2).Hoàng hậu Sam Đát sinh được 1 công chúa và hai hoàng tử. Hoàng tử lớn tên là Batom-Rachea lên ngôi vua Chân Lạp năm 1658 sau khi vua cha là Prey-Chetta từ trần. Từ đó Hoàng hậu trở thành Hoàng Thái Hậu nước Chân Lạp, nhưng vì chán cãnh triều đình nhiều tranh chấp trong nội bộ hoàng gia nên Ngọc Vạn cho lập chùa để đến trụ trì tu hành tại vùng thủy Chân Lạp. Bấy giờ quận chúa Ngọc Vạn lại trở thành một vị Sư Nữ rất được tôn trọng tại Chân Lạp. Còn hoàng tử thứ hai tên là Nặc Ông Non (Ang-Non, sau nầy người Pháp dùng chữ Norodom để chỉ dòng họ Nặc-Ông hay Nặc nầy).



Bản đồ Việt Nam thời Trịnh - Nguyễn phân tranh năm 1650
Năm 1627, Sãi Vương lại gả quận-chúa Ngọc Khoa cho vua Chiêm là PO-ROME.Ngọc Khoa được triều đình Chiêm Thành tấn phong Hoàng Hậu Champa và được dân Chiêm Thành ngưỡng mộ đem kiệu vàng rước về nước.
Hai cuộc hôn nhân nói trên rõ ràng là noi gương lịch sử mở nước về phương Nam từ đời vua Trần Nhân Tông hơn 300 năm trước đó.

Chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền Vương) 1648-1687
Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm (Po Nraop) tiến quân sang đánh phá vùng Phú Yên nhằm dành lại đất nầy. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ là Hùng Lộc đánh sang nước Chiêm. Bà Tấm xin hàng, chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.Như vậy đã mở nước thêm được tỉnh Khánh Hòa ngày nay sau tỉnh Phú Yên 40 năm.
Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom Reachea (con trưởng của quận chúa Ngọc Vạn) lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa. Tại khu vực này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã phải cử một đội quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.
Sau khi vua Batom-Rachea bị hành thích chết vào năm 1674, hoàng thân Nặc Ông Đài đòi quyền kế vị bằng cách sang cầu viện quân Xiêm-La sang gây lộn xộn ở vùng Đồng Nai và đòi tăng thu thuế của dân Việt trong vùng nên chúa Hiền Vương cho quân vào Chân Lạp phế truất Nặc Ông Đài lập Nặc Ông Thu (Ang Sor) làm Chính Vương và đưa ANG-NON là con thứ của Hoàng Thái Hậu Ngọc-Vạn làm Phó Vương. Phó Vương đóng đô ở thành Sài Côn (sau nầy là Sài Gòn) thuộc Thủy Chân Lạp. Từ đó về sau con cháu dòng họ Norodom nầy thay nhau làm Vua Chân Lạp và họ đều mang dòng máu của quận chúa Ngọc Vạn.
Năm 1679 có các cựu quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây - Trung Quốc), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình là tổng binh châu Cao, Lôi, Liêm (Quảng Đông - Trung Quốc) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Đại Việt. Chúa Nguyễn Phúc Tần nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho họ vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Những người này cùng với những lưu dân người Việt định cư trước đó đã chia nhau ở đất Đồng Nai, Biên Hòa, Mỹ Tho (Tiền Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương Tây, Nhật Bản, Chà Và đến buôn bán khá đông. Đây là những vị tổ sang lập ra thành phố Chợ Lớn ngày nay.
Năm 1680, Mạc Cửu, một đại thần nhà Minh bên Tàu, người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang vùng thuỷ Chân Lạp năm khai khẩn và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên, Mạc Cửu mở rộng đất đai của mình gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc khi đó đang thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được.Sau này, mãi đến năm 1708 Mạc Cửu được chúa Nguyễn phong làm Tổng binh. Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ được nối nghiệp cai quản đất Hà Tiên, đã đắp thành, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho học.                                         .

Chúa Nguyễn Phúc Chu (Minh Vương) 1691-1725
Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh (Po Saot) bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành. Đến năm 1697 chúa Nguyễn lấy Phan Lý (Phan Rí), Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và Hòa Đa. Từ năm 1697 đó nước Chiêm Thành mất hẳn.
Tuy nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá đất Nam bộ của Chân Lạp nên qua năm 1697, chúa Nguyễn đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. (Đến năm 1832 sau này, vua Minh Mạng xóa bỏ cơ chế tự trị trên và lập thành tỉnh Bình Thuận).
Do cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn kéo dài nên dân Việt phải chịu đói khổ, nhiều người bỏ vào khai khẩn đất ở vùng Mỏ Xoài (Bà Rịa) và vùng Đồng Nai (Biên Hòa) thuộc thủy Chân Lạp.
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất thuỷ Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố (Gia Định) ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phiên Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ thêm những người lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, những người Việt và Tàu ở đây đều thuộc về sổ bộ nước Việt của chúa Nguyễn. Năm 1699 vua Ang Em của Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm giành lại nhưng bị thất bại.
Năm 1708 để tránh áp lực thường xuyên của quân nước Xiêm La (Thái Lan ngày nay) sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa Nguyễn Phúc Chu, chúa Nguyễn đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.

Chúa Nguyễn Phúc Chú 1725-1738
Năm 1729 Chúa Nguyễn Phúc Chú cho đặt sở Điều Khỉển ở Gia Định, lấy cớ quân Chân Lạp hay sang quấy nhiễu.
Từ năm 1735 - 1739 Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Cần Thơ. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong
Năm 1732, chúa Nguyễn Phúc Chú tiến chiếm vùng đất ngày nay là Vĩnh Long, Bến Tre, dựng dinh Long Hồ trực thuộc phủ Gia Định.

Chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) 1738-1765
Chúa Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng hiệu Võ Vương vào năm 1744 và được Nguyễn Cư Trinh hiến kế sách “tầm thực”, nghĩa là nên lấy dần dần vùng thủy Chân Lạp như con tầm ăn lá dâu.
Năm 1755, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1756, Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nương nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân AnGò Công) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.
Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp. Về sau, Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa thế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn (Outey II), con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn.
Sau đó không lâu Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn riêng Mạc Thiên Tứ, Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản, 5 phủ này về sau khi Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã cắt trả về cho Cao Miên, ngày nay là 2 tỉnh TakéoKampot.
Đất miền nam Việt Nam bây giờ thì trước đó là đất của Chân Lạp, tuy nhiên trước đó thì Chân Lạp lại là kẻ chiếm đất của Phù Nam đã từng tồn tại từ khoảng thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 tại đồng bằng sông Mekong.
[Sáp nhập Tây Nguyên
Từ thời các chúa Nguyễn, các bộ lạc ở Tây Nguyên mà mạnh nhất là bộ tộc người Gia Rai với các vị tiểu vương Thủy Xá, Hỏa Xá đã từng triều cống chính quyền Đàng Trong, trước đây khu vực này là vùng độn giữa các nước Chiêm Thành và Chân Lạp, nó không thực sự thuộc về bên nào mà khi thì thuộc Champa, khi thì Chân Lạp, thậm chí có lúc một phần thuộc về Ai Lao tùy thuộc vào sức mạnh từng thời kỳ của các nước này.
Tuy vào năm 1830, vua Minh Mạng sáp nhập vùng đất Tây Nguyên ngày nay và đưa vào bản đồ Đại Nam, mặc dù không hề có người Kinh sinh sống cũng như quan lại cai trị. Tây Nguyên lúc đó được xem là vùng tự trị của Việt Nam.]

Kinh tế Đàng Trong thời mở nước về phương Nam
Do sự tác động từ sự du nhập của khoa học kỹ thuật phương Tây, thủ công nghiệp Đàng Trong không chỉ phát triển về quy mô mà còn xuất hiện nhiều ngành nghề mới.
Các chúa Nguyễn Đàng Trong xây dựng các công xưởng, quan xưởng theo truyền thống từ thời nhà Lý. Các công xưởng, quan xưởng này nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động công nghiệp, xây dựng và tiêu dùng của chính quyền. Làm việc tại công xưởng là những thợ giỏi, khéo được huy động từ các địa phương theo chế độ thời gian dài, ngắn khác nhau.
Đóng tàu, thuyền
Chúa Nguyễn lập những xưởng đóng tàu, thuyền quy mô lớn, tiêu biểu nhất là xưởng ở Hà Mật có 400 người.Xưởng này đã sản xuất ra những loại thuyền có trọng tải lên tới 400 tấn. Năm 1674, chúa Nguyễn có 133 thuyền từ các xưởng này, mỗi thuyền có thể chở được 64 người.
Đúc tiền
Việc đúc tiền Đàng Trong bắt đầu khá muộn, từ năm 1736 dưới thời Nguyễn Phúc Chú. Tiền được đúc tại Cục đúc tiền dù tốn kém nhưng không thông dụng.
Năm 1746, Nguyễn Phúc Khoát mở Cục đúc tiền ở Lương quán, đúc tiền kẽm Thiên minh thông bảo. Trong vòng 2 năm, nơi đây đã đúc 72.396 quan tiền.
Lúc đầu chất lượng tiền được đảm bảo, nhưng sau đó do nhu cầu tiền lên cao, nhiều nhà giàu tranh nhau mở lò đúc, làm giảm chất lượng, nhiều tiền trộn chì, mỏng và dễ gãy. Vì vậy dân bỏ tiền đó đi không tiêu nữa.
Năm 1775, quân Trịnh vào đánh chiếm Phú Xuân đã gom các vật dụng bằng đồng của chúa Nguyễn ở phía hữu trấn dinh để đúc tiền. Từ công thức: 100 cânđồng + 15,12 cân thiếc + 43,1 cân chì đúc được 38 quan tiền. Tổng cộng số tiền đúc năm 1776 là 30.362 quan.
Đúc súng
Chúa Nguyễn cho mở xưởng đúc súng từ năm 1631, hiện nay vẫn còn di tích ở Huế. Xưởng này có sự trợ giúp của người Bồ Đào Nha là Joao da Cruz. Tổng số thợ làm việc trong xưởng là 80 người, từ hai xã Phan Xá, Hoàng Giang thuộc huyện Phong Lộc.
Để đúc 1 khẩu đại bác cần 15 khối sắt, 10 cân gang và 10 quan tiền than. Nhờ xưởng đúc này, chúa Nguyễn có hơn 200 khẩu súng vào năm 1642, tạo nên sức mạnh góp phần chống trả thành công những cuộc tiến công của chúa Trịnh.
Khai thác mỏ
Đàng Trong không có nhiều tài nguyên khoáng sản như Đàng Ngoài: không có mỏ đồng, chỉ có một số mỏ sắt và mỏ vàng. Mỏ sắt ở Phú Bài (huyện Phú Vang), trang Điển Phúc thuộc Bố Chính.
Thuế sắt hàng năm ở Phú Vang là 2000 khối (mỗi khối 25 cân), tại Điển Phúc là 500 khối.
Các chúa Nguyễn kiểm soát chặt chẽ việc khai thác vàng. Các quan ở ty Ngân tượng và Nội lệnh sử trông coi việc nấu vàng và thu thuế. Ngoài ra, còn cho phép các hộ tư nhân đãi vàng, gọi là thực kim hộ. Những vùng có vàng thì dân tập trung khai thác và đãi vàng, được miễn suất đi lính. Những hộ này phải nộp thuế, nếu không nộp bằng vàng thì nộp theo giá vàng là 4 quan tiền.
Ban đầu, Đàng Trong chưa có những nơi khác thác vàng tập trung. Vào cuối thế kỷ 18, tại Đàng Trong mới xuất hiện một số nơi khai thác vàng tập trung như ở nguồn Thu Bồn thuộc huyện Duy Xuyên (Thăng Hoa) và 4 ngọn núi ở xã Nam Phố huyện Phú Vang.
Các ngành khác
Ngoài ra, các chúa Nguyễn còn có những công trường lớn, chiêu tập thợ các ngành nghề như thợ mộc, thợ nề, thợ đá, thợ sơn...Những người thợ được phân thành các Ty theo ngành nghề như Ty thợ chạm, Ty thợ may, Ty thợ thêu, Ty thợ tiện, Ty thợ sơn, Ty thợ giày, Ty thợ đúc, Ty thợ lọng, Ty thợ thiếc...Nhìn chung trình độ của thợ thủ công tại các công xưởng thế kỷ 18 đã cao hơn các thời kỳ trước.
Tiểu thủ công nghiệp
Tiểu thủ công nghiệp chính yếu phục vụ đời sống sinh hoạt của dân và xuất khẩu.
Nghề làm gốm nổi tiếng tại các làng Lộc Thượng, Phú Vinh (Quảng Nam), Mỹ Thiện (Quảng Ngãi). Nghề gốm được chuyên môn hóa, tạo ra nhiều sản phẩm khá tinh xảo.
Nghề dệt tạo ra các sản phẩm như lụa, gấm, sa. Các làng xã thuộc Điện Bàn, Thăng Hoa thạo nghề dệt lụa và vóc, lĩnh, đoạn có màu hoa đẹp. Sản phẩm tại đây là sản phẩm xuất khẩu chính của Đàng Trong sang Trung Quốc, Nhật Bảnchâu Âu.
Phú Xuân có nghề dệt gấm chuyên cung cấp cho chúa Nguyễn. Tại hai xã Vũ Xá và Bình Xá ở huyện Lệ Thủy cũng có nghề dệt lụa lâu đời. Tuy nhiên, các sản phẩm đều được làm thủ công và những người thợ làm nghề chỉ coi là nghề phụ nên số lượng sản phẩm không nhiều.
Vùng Quảng NamQuảng Ngãi là hai trung tâm sản xuất đường, tạo ra các loại đường trắng, mịn, tinh khiết và đường phổi, đường phèn nổi tiếng. Nghề làm đường ở Đàng Trongnổi tiếng hơn ở Đàng Ngoài và là một trong các mặt hàng xuất khẩu chính.
Ngoài các nghề trên, trong nhân dân còn có nghề làm giấy tại làng Đại Phú ở Quảng Bình, Đốc Sở ở Thừa Thiên; nghề dệt mã vĩ và nghề thêu ở Quảng Xuyên huyện Hương Trà. Nhân dân thường tổ chức ra thành các tổ, hội nghề nghiệp.
Nông nghiệp Đàng Trong thời Lê trung hưng
Nông nghiệpĐàng Trong phản ánh tình hình ruộng đất và sản xuất nông nghiệp của miền nam nước Đại Việt thời Lê trung hưng, dưới quyền cai quản thực sự của chúa Nguyễn, trong khoảng thời gian từ 1600 đến 1777.
Chế độ ruộng đất
Từ năm 1558, khi mới vào cai quản Thuận-Quảng, Nguyễn Hoàng chưa định ngạch thuế khóa cho ruộng đất nông nghiệp.
Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý việc thu thuế đất này. Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các để thu thuế.
Năm 1669, Nguyễn Phúc Tần theo đề nghị của Vũ Phỉ Thừa, sai Hồ Quảng Đại đi đo đạc ruộng đất ở các huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc.
Ruộng đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công Đàng Trong chia làm “quân điền trang” và “quan đồn điền” thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cấp ruộng này cho người thân thích và công thần. Người thân thích nhà chúa được 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu.
Ruộng đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần gấp 3 lần.
Ruộng đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách kích thích sự phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng nhiễm mặn, rừng rú đều được cải tạo thành các làng xã mới. Ruộng đất tư ở vùng Thuận Quảng phân tán, chủ yếu là loại vừa và nhỏ.
Chính sách cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán vào nam khai phá đất mới đã tạo điều kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Đồng thời, việc kiêm tính ruộng đất cũng xảy ra ở vùng Nam Bộ mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn, có ruộng đất hàng ngàn mẫu.
Thời kỳ đầu, các chúa Nguyễn chưa nắm được số ruộng đất, thuế khóa còn nhẹ nên đời sống nông dân khá cao. Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế. Phép thu thuế của Đàng Trong không phải quá nặng, nhưng các quan lại coi việc thu quá nhiều, hay phiền nhiễu nhân dân, truy xét rà soát nhiều và tham nhũng khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề.
Sản xuất nông nghiệp
Từ đầu thế kỷ 17, Nam Bộ còn là vùng đất hoang vu. Từ khi khai phá vùng này, các chúa Nguyễn có chính sách quan tâm đến nông nghiệp. Hàng loạt con sôngkênh được đào vét ở Thuận Quảng, điển hình như kênh Trung Đan và Mai Xá. Sang thế kỷ 18, những vùng đất hoang vu ở Nam Bộ đã trở thành ruộng phì nhiêu, ruộng tốt bậc nhất Đại Việt.
Nghề nông Đàng Trong đã tạo ra 26 giống lúa nếp và 23 giống lúa tẻ. Ngoài ra, nông dân còn trồng khoai, ngô, hạt bo bo (tức ý dĩ), vừng (gọi là ) và các cây ăn quả gồm mãng cầu (na), mít, xoài, chuối; các loại rau.

PHẦN 3 :  TRAU  DỒI  KIẾN  THỨC
Lịch sử hình thành của miền nam Việt Nam  
Võ Thanh Liêm

I.      Vương quốc cổ Phù-Nam

Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi tên nước này là ‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Chúng ta có thể khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi vương quốc được thành lập.
Lịch sử bắt đầu từ khoảng năm thứ nhứt sau Công nguyên khi tại châu Âu, Ðại Ðế Claudius ra sức chinh phục đất Anh Cát Lợi và tại Trung Hoa là nhà Tây Hán. Theo truyền thuyết thì ngày xưa có một vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên là Kaundinya được thần linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc hành trình đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng sông Cửu Long. Bỗng từ đất liền xuất hiện một mỹ nhân trên chiếc thuyền nan bơi ra chặn thuyền của Kaundinya lại. Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con gái của vua Rắn Hổ mười đầu. Trận thư hùng diễn ra giữa anh hùng và giai nhân. Nhờ phép thuật thần thông nên Kaundinya thắng trận. Nữ chúa Soma cầu hòa. Sau đó không lâu hai người yêu rồi cưới nhau sinh ra một người con trai. Người con trai này trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Phù-Nam lấy hiệu là Kampu.
Kinh đô trù phú của vương quốc được xây dựng tại thành Vyadhapura. Hầu hết những dữ kiện liên quan đến vương quốc cổ nhất Ðông Nam Á này đều đến từ sử liệu Trung Hoa và di vật khai quật được ở Óc-Eo. Chính vì thế tên các vương triều thường là do phiên âm ra tiếng Hán. Vào năm 245 sau Công nguyên nhà Hán Trung Hoa sai sứ giả là K’ang T’ai đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Ông đã mô tả là vương quốc này đã biết cách luyện kim, kinh đô Vyadhapura có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh, có hệ thống kinh đào để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ. K’ang T’ai cũng nói rằng vương quốc Phù Nam có thư viện với nhiều sách vở chữ Phạn, có luật lệ, hệ thống thâu thuế và nông nghiệp, thương mãi đều phát triển. Thường thì người Hoa có tục lệ khinh khi những dân tộc không phải là Hán tộc. K’ang T’ai đã kết luận rằng người Phù Nam là một dân tộc man di, nước da đen đúa xấu xí, tóc quăn và đa số ở truồng, đi chân không. Ông sứ giả có than phiền điều này với quốc vương Phù Nam là vua Hun Fan Huang. Nhà vua sau đó ra lệnh cho tất cả thần dân của Ngài về sau phải quấn vải vào phần dưới thân thể, tiền thân của chiếc sà-rong mà người Thái, Miên và Mã Lai thường mặc ngày nay.
Những lời kể lại của thương nhân các nơi khác lại tỏ ra thán phục nền văn minh và sự hùng cường của Phù Nam. Họ kể rằng giới quí tộc Phù Nam ăn mặc diêm dúa, ở cung điện nguy nga bật nhất và nước Phù Nam có rất nhiều đồ châu bảo vàng bạc quí giá. Vương quốc sử dụng chữ Phạn cổ Sanscrit của Ấn Ðộ trong công việc hành chánh và thương mãi. Trong vòng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù Nam đã có một hạm đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh. Vương quốc Phù Nam đã chinh phục được hầu như toàn thể những khu dân cư của vùng Mã Lai -Thái lan - Miên và nam Miến Ðiện để kiểm soát đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Ðộ.  Hào quang cường thịnh và cách tổ chức hành chánh của Phù Nam đã làm gương mẫu cho những nền văn minh sau này như là tiểu vương quốc Sri Vijaya (Palembang), Sailendra ở Java Indonesia, và Malacca góp phần truyền bá văn minh Ấn Ðộ đến những thành phố, bộ lạc phiên thuộc dưới quyền kiểm soát của Phù Nam. Óc-Eo ngày xưa là một thương cảng trù phú có nhiều thương thuyền ghé lại. Vào thời điểm này thương gia đến Óc-Eo tấp nập từ đông sang tây: Ðế quốc La Mã qua Ấn Ðộ và Trung Hoa. Người ta đã tìm được những đồng tiền cổ của La Mã tại đây. Con của Hun Fan Huang là Fan-Shih-Man lên nối ngôi khoảng đầu thế kỷ thứ 3. Tiếp theo là các vua Hun TienHun Phan Fan cha truyền con nối. Vua Hun Phan Fan là một vị minh quân trị vì từ cuối thế kỷ thứ 3 qua thế kỷ thứ 4. Ông nới rộng lãnh thổ, làm hùng mạnh quốc gia và thọ 90 tuổi, không rõ năm nào. Con của vua Hun Phan Fan là Hun Phan Phan không thích làm vua nên bỏ đi tu, nhường ngôi cho một viên tướng là Seray Mara sử Tàu gọi là Fan Che Man. Vua Fan Che Man nới rộng lãnh thổ Phù Nam ra gấp đôi diện tích cũ. Ông đã băng hà vào khoảng năm 204-210. Sau cái chết của vua Fan Che Man triều đình Phù Nam rơi vào cảnh rối loạn liên tiếp. Người cháu của vua là Fan Chan giết chết thái tử con của vua trước để chiếm ngôi. Hai mươi năm sau một người con của vua Fan Che Man là Asachi lại giết được Fan Chan để lấy lại ngai vàng. Sau đó không lâu Asachi lại bị tướng Siun giết để lên làm vua. Hoàn cảnh nào đưa vua Chandana lên ngôi vương không được sử liệu Trung Hoa nhắc đến. Có những chổ trống trong lịch sử những nước lân bang mà có lẽ vì trùng họp với những biến động chính trị tại triều đình Trung Quốc nên sử gia Trung Hoa đã không thể điều nghiên ghi chép.
Năm 357 Phù Nam dưới triều vua Chandana sang cầu phong Trung Hoa và xin triều cống. Một điều đáng nói là mặc dù những dân tộc tại Ðông Nam châu Á bị ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Ấn Ðộ, nhưng người Ấn Ðộ và lịch sử Ấn Ðộ hoàn toàn không quan tâm đến thế giới phía đông này cho đến mãi thế kỷ 20 chính phủ và nhân dân Ấn Ðộ mới tìm hiểu thêm về một vùng văn minh Ấn Ðộ đã có mặt tại đây từ lâu. Lịch sử Ấn Ðộ không đếm xỉa gì đến vùng Ðông Nam châu Á có ảnh hưởng văn hóa Ấn trong quá khứ. Ngược lại người Trung Hoa từ hơn 2000 năm nay luôn xem vùng biển phương nam thuộc ảnh hưởng của Thiên triều. Họ cho sứ giả đi điều tra và ghi chép cẩn thận những điều mắt thấy tai nghe. Từ lúc ban đầu ấy các nước đông nam Á đều đã có liên hệ ngoại giao với Trung Hoa qua hình thức cống sứ và xin phong. Trong thâm tâm tầng lớp lãnh đạo Trung Hoa, Thiên triều có thẩm quyền và nhiệm vụ can thiệp tại vùng nam châu Á nếu cần. Lịch sử đã chứng minh điều đó và gần đây nhất là Trung quốc đã đánh vào miền Bắc Việt nam năm 1979 vì bất đồng về chủ quyền và ảnh hưởng tại vương quốc Kampuchia. Nhưng cũng nhờ thế mà ta có những sử liệu quí giá từ thời thượng cổ để tìm hiểu lịch sử của những quốc gia phương nam của Trung Quốc trong đó có Việt Nam ngày nay và Phù Nam xưa.
Những thần dân của Phù Nam xưa thuộc giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer, Miến, và dân đa đảo Malay-indônêsiên. Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ pha trộn với nhiều sắc thái, thổ ngữ địa phương.  Người nước Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật giáo. Vương quốc Phù Nam đạt đến sự cực thịnh dưới triều vua Kaundinya Jajavarman (478-514). Vua Rudravaman (514-539) có sai sứ sang Trung Hoa triều cống và cho biết Ngài có một lọn tóc xá lợi của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Trong thời gian này các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đã dịch cuốn Phật Kinh Vimutti Magga sang chữ Hán. Ngày nay cuốn kinh này chỉ tồn tại bằng chữ Hán vì bản chánh chữ Phạn đã bị thất lạc. Thế rồi sau đó vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nội loạn và sự nổi dậy của dân tộc Khmer (một xứ phiên thuộc của Phù Nam), tràn sang từ vùng đất thuộc nước Lào bây giờ. Một yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của Phù Nam là nền kinh tế của quốc gia đã đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải. Thuyền buôn vào thời điểm này đã có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé lại Óc-Eo trên đường đi qua Trung Quốc.  Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người Khmer lúc đó là Vương quốc Chân Lạp. Ðến năm 627 Phù Nam bị người Khmer dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ. Những thần dân của Phù Nam bị sát nhập vào vương quốc Khmer. Hoàng gia của Phù Nam dùng đường biển tị nạn sang đảo Java của Nam Dương (Indonesia). Họ sống âm thầm mãi đến gần 200 năm sau, hậu duệ của nhóm người này phát lên để dựng nên triều đại huy hoàng Sailendra. Các ông hoàng bà chúa của dòng họ này lại kết hôn với các lãnh chúa của các tiểu vương lân bang như Mã Lai và nhiều đảo quốc trong vùng. Cho đến ngày nay giới quí tộc, hoàng gia các nước đa đảo như Mã Lai, Nam Dương (Indonesia) đều có liên hệ huyết thống với hoàng tộc nước Phù Nam của miền nam Việt Nam.
Từ năm 550 trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền nam, người Khmer cai tri xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp. Từ khi bị mất nước về tay Chân Lạp người dân Phù Nam trở thành một dân tộc lục địa, mất đi khả năng hàng hải. Ngày nay người Khmer nhìn nhận các vương triều Phù Nam là tổ tiên của dân tộc Khmer và là một phần của lịch sử Khmer. Người Khmer còn được chúng ta biết đến qua nhiều danh xưng Cao Miên, Chân Lạp, Cam bốt và Kampuchia. Vào lúc người Việt di cư đến vùng đất miền Nam vào năm 1800 người ta tìm thấy một pho tượng nữ vương bằng cẩm thạch bị chôn vùi từ thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 sau Công nguyên. Có thuyết cho rằng đó là tượng quốc mẫu vương quốc Phù Nam là Soma. Người Việt kính cẩn lập đền thờ bà tại núi Sam tỉnh An Giang gọi là đền thờ Bà Chúa Xứ. Hàng năm cư dân Hoa, Việt, Miên lui tới cúng bái, hương khói vô cùng linh thiêng. Sự việc đó cho thấy lòng biết ơn của những người đến sau đối với những đợt người đã khai phá vùng đất này trước dân tộc Việt Nam.

II.   Vương quốc Chân Lạp làm chủ khu vực miền nam Việt Nam (thế kỷ thứ 7-thế kỷ 17 sau Công Nguyên)

 

Năm 600-611 có triều vua Mahendravarman tiếp theo là vua Isanavarman đóng đô tại Ankor Borey. Năm 750 vua Jayavaman I mở rộng lãnh thổ, xây thêm đền đài. Ngài cho khẩn hoang và trồng lúa cùng các loại hoa màu dọc bờ sông Cửu Long xuống tới miền Tây Việt Nam ngày nay. Khoảng năm 780 dòng Vương cũ của Phù Nam giờ thành Vương Triều Sailendra của đảo Java (Indonesia) trở nên hùng mạnh đã dùng binh lực ép buộc vương quốc Chân Lạp của người Khmer phải triều cống và lệ thuộc. Từ năm 800 đến 887 nước chân Lạp dưới sự lãnh đạo của vua Jayavaman II (802-887) và Jayavaman III (850-887) đã giành lại được độc lập từ dòng Sailendra của Java. Vương quốc Chân Lạp được đổi tên là Kampuchia. Trong thời này những thế lực phong kiến có khuynh hướng chia đế quốc Chân lạp thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (vùng đồng bằng miền nam tức Phù Nam xưa). Jayavaman II còn có tên là Puskarak đã từng bị bắt trong trận chiến, và bị đày qua đảo Java. Sau ông trốn thoát về tổ chức nghĩa quân giải phóng đất nước chống lại quân chiếm đóng Java và quân người Chăm nước Champa (Trung Việt ngày nay). Năm 803 Puskarak lên ngôi Vương lấy hiệu là Jayavaman II rồi tuyên bố độc lập. Tuy nhiên quyền lực của đảo quốc Java không ngừng dòm ngó vương quốc Kampuchia của Jayavaman II. Trong suốt 50 năm trị vì ông đã dời đô 5 lần vì chiến tranh với Java. Khi Jayavaman III qua đời không con nối dõi nên một người bà con họ mẹ đã lên ngôi xưng vương hiệu là Indravaman I (877-889).
Vua Indravaman I là một vị vua anh hùng, có tài thao lược và cũng yêu nghệ thuật văn thư. Trong đời ông đã có công thống nhất Lục Chân Lạp với Thủy Chân Lạp và xây dựng thêm nhiều thành phố lớn, khuyến khích nông nghiệp và thương mãi. Indravaman I cũng khởi đầu nới rộng Ðế quốc Khmer (Kampuchia), thay đổi bản đồ chính trị trên bán đảo Ðông Dương bằng những võ công nổi bật. Con của Indravaman I nối sự nghiệp của cha xưng hiệu là Yaksovaman I (889-900).Yaksovaman I dời kinh đô từ Hari Hara Ley đến Yaso Tha Bura trên cao nguyên Bakheng. Chính vào thời điểm này sự phú cường của Ðế quốc Kampuchia đã cho phép nhà vua khởi công nhiều công trình kiến trúc vĩ đại trong đó có Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích), đền đài Lo Ley, đền đài Phnom Bok. Angkor Wat đã là một công trình kiến trúc vĩ đại nhất của vùng Ðông Nam Châu Á. Nhà vua còn cho đào hồ Ðông Baray dài 7 km, ngang 1800 km. Một công trình vĩ đại vào thời đó. Những công trình to tát này đa phần nhờ vào hàng vạn tù binh và nô lệ bắt được từ những trận chiến chinh phạt Xiêm và Lào. Suốt thế kỷ thứ 9 Ðế quốc Khmer-Chân Lạp có 6 triều vương đó là Hashavaman I (900-922), Isanavaman II (922-928), Jayavaman IV (928-941), Harshavaman II (941-944), Rajendravaman II (944-968), và Jayavaman V (968-1001). Rajendravaman II vốn là một vị tướng của vương quốc sau khi gôm quyền lực vào tay đã lên ngôi vương tại Angkor Wat (Ðế Thiên Ðế Thích). Trong 24 năm cầm quyền ông cho xây thêm nhiều đền tháp lâu đài và đánh bại quân Chăm của Vương quốc Chiêm Thành (Champa, Trung Việt). Khi nhà vua băng hà con là Jayavaman V lên thay. Sau cái chết của Jayavaman V năm 1001 toàn lãnh thổ Chân Lạp rơi vào cảnh đại loạn kéo dài 9 năm. Lãnh chúa Suryavaman I (1002-1050) đã đàn áp được những thế lực khác và thống nhất ngôi Vương tại Angkor Wat. Từ năm 1050 đến 1177 đế quốc Khmer tiếp tục bành trướng. Phía bắc giáp Trung Hoa, phía nam giáp biển Xiêm La (Thái Lan), phía tây giáp Miến Ðiện, phía đông giáp Chiêm Thành. Trong thời gian này hùng cường nhất là vua Suryavaman II (1113-1150). Nhà vua xông pha trận mạc để lại nhiều võ công oai hùng. Ngài đã đụng trận với Trung Hoa, Ðại Việt, Chiêm Thành, Xiêm và Miến-Mường. Ngài đã chết tại sa trường một cách oanh liệt. Năm 1177 quân Chăm của Vương Quốc Chiêm Thành (Champa) xâm lăng và giết được vua Khmer là Tri-Bhuvanadit-yavarman khởi đầu cho quá trình suy tàn của đế quốc Khmer từ thế kỷ thứ 13. Trên thế giới lúc đó là thời điểm đế quốc Mông Cổ đang bành trướng vào Ấn Ðộ phía Tây, xâm chiếm Trung Hoa phía Bắc và phía Ðông hai vương quốc Ðại Việt và Chiêm Thành đang nắm tay hợp sức đẩy lui đoàn quân viễn chinh Mông Cổ.
Sự suy nhược của Ðế quốc Khmer vào thế kỷ 13 tạo cơ hội cho người Thái (Xiêm) nổi dậy giành độc lập. Danh xưng ‘Thái’ có nghĩa là ‘tự do’ không còn nô lệ nữa. Quân đội người Thái đã tấn công đế đô Angkor (trong khoảng thời gian 1431-1432) và tàn sát hàng mấy vạn người gà chó không chừa để trả thù sự tàn bạo hà khắc mà người Khmer đã áp đặt lên họ trước kia. Sự tàn sát đã khủng khiếp đến độ không còn ai sống sót để nhớ lại nơi chốn này. Ðế đô Angkor đã bị quên lãng bởi chính người Khmer trong suốt 500 năm mãi đến thế kỷ 19, ông Henri Mouhot, người Pháp, trong lúc đi thám hiểm rừng sâu mới tìm lại phế tích Angkor Wat năm 1860.
Năm 1401? vua Chân Lạp Ponhea Yat dời đô về Phnom Penh (Nam Vang) đánh dấu một triều đại mới, chấm dứt kỷ nguyên Angkor. Chữ Phạn Ấn độ cổ Sanscrit không còn được sử dụng nữa. Lối chữ mới theo thể Pali giống Mã Lai được thay vào. Toàn thể những dòng dõi vương tôn, quí tộc cũ theo văn hoá Ấn Ðộ biết đọc, viết chữ Sanscrit đã bị người Thái tận diệt. Năm 1528 vua Ong Chân I lại phải dời đô về Lovek (La Bích). Ðến năm 1593 quân Xiêm lại tấn công La Bích. Từ đó người Thái nắm quyền phế lập các vua chúa Khmer.

III.             Chúa Nguyễn bành trướng thế lực của người Việt tại Thủy Chân Lạp (thế kỷ 17-18 sau Công Nguyên)

Một biến cố chính trị tại phương đông, miền cực nam nước Ðại Việt đã làm thay đổi tình thế lúc đó là sự xuất hiện của chúa Nguyễn Hoàng, truyền nhân của Nguyễn Bặc, Nguyễn Trãi và Nguyễn Kim. Chính sách Nam Tiến của các chúa Nguyễn sau đó nhằm để chống lại thế lực của chúa Trịnh ở Thăng Long tạo nên áp lực to tát cho hai lân quốc Champa và Chân Lạp. Trong khoảng thời gian từ năm 1611-1653 vương quốc Champa đã bị dồn nén bởi thế lực của chúa Nguyễn nên co cụm lại một vùng nhỏ từ Nha Trang đến Phan Thiết. Không dừng lại ở Champa, chúa Nguyễn bắt đầu dòm ngó đến Chân Lạp.
Sau một thời gian ở Xiêm làm con tin, Chey Chetta II về Chân Lạp lên ngôi vương năm 1618. Tân vương cải canh mọi việc và mang lòng không không phục người Xiêm. Chey Chetta II dời đô về Oudong (Long Úc), thuộc tỉnh Kompong Luông. Tân vương tổ chức quân đội có thực lực. Mấy năm liền không thấy Chân Lạp dâng phẩm vật triều cống, Xiêm vương mang quân tấn công vào Chân Lạp hai lần đều bị quân của Chey Chetta II đẩy lui. Tuy nhiên về lâu về dài Chân Lạp sẽ không thể đương đầu với quân Xiêm. Chey Chetta II quyết định nhờ vào thế lực của chúa Nguyễn Ðàng Trong, lúc đó là Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Quốc sử Cao Miên đã chép như sau về giai đoạn này: ‘Vua Xiêm muốn tái lập uy quyền trên đất Cao Miên, nên xua binh tấn công. Năm 1623, một đạo quân từ phía Bắc xâm nhập lãnh thổ, bị quốc vương Chey Chetta II thân chinh đánh tan rã ở Bâribaur cách biển Hồ lối 50 km. Ðạo thứ hai tiến vào tỉnh P. Meas bị Hoàng đệ Prah Outey đẩy lui. Năm sau, 1624 quân Xiêm theo đường biển đổ bộ miền duyên hải, bị phản công dữ dội phải rút về. Ðể đề phòng quân Xiêm quấy nhiễu, quốc vương Chey Chetta II cưới một công chúa xứ Ðàng Trong hầu dựa vào thế lực của nhà Nguyễn ở Huế.’
Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã quyết định gả Hoàng Nữ Ngọc Vạn cho vua Cao Miên năm 1620. Chúa còn hai Hoàng nữ khác là Ngọc Khoa gả cho vua Chiêm Pô Romê và Hoàng nữ Ngọc Hoa lạigả cho một thân vương người Nhật Bổn.Vua Cao Miên mặt khác lại nghe truyền rằng Sãi Vương là người mộ đạo Phật, trong người có nhiều Phật tính nên muốn kết tình gia đình. Ði theo hộ tống đám cưới bà Hoàng Ngọc Vạn xinh đẹp là đông đảo quan lính người Việt của Sãi Vương trang bị khí giới, tàu thuyền có súng ống, thuyền được trang hoàng lộng lẫy hình chim phượng mạ vàng. Tham dự lễ cưới có nhiều người ngoại quốc từ Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Nhựt Bổn, Ý Ðại Lợi, Trung Hoa. Bà  Ngọc Vạn ngồi kiệu 8 người khiêng sánh duyên với vị vua hào hùng anh tuấn. Hoàng nữ Ngọc Vạn được tấn phong Hoàng Hậu với tước hiệu là Sô Dach Prea Peaccac Vodey Prea Voreac Khsattey.
Tiếp theo sau cuộc hôn nhân vương giả này, bà Hoàng Ngọc Vạn đã xin với Hoàng phu cho nhiều người tùy tùng nắm giữ chức quyền trong triều đình Chân Lạp. Dưới sự bảo trợ của Hoàng hậu Ngọc Vạn lưu dân người Việt từ Ðàng Trong ồ ạt theo đường biển vào lập nghiệp tại vùng Thủy Chân Lạp. Họ làm nghề nông, buôn bán, tiểu công nghiệp, đánh cá, thợ rèn v.v.. chỉ 3 năm sau, tức năm 1623 lưu dân Việt định cư tại Thủy Chân Lạp lên đến 20,000 người. Sãi vương liền viết thư cho con rể xin ‘cho mượn’ đất tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) để tiện việc thâu thuế người Việt tại đây. Vua Cao Miên chấp thuận.
Sau khi quốc vương Cao Miên băng hà chỉ sau 5 năm lấy vợ Việt, toàn vùng Bà Rịa giáp giới Chiêm Thành, Kâmpéâp Srekatrey (Biên Hòa), Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé) đều thuộc quyền người Việt cai trị và thâu thuế.  Từ sau khi vua Chey Chetta II băng hà các hoàng tử con của các bà phi người Chân Lạp liên tiếp lên làm vua: Ponhea To (1629-1630), Ponhea Nu (1630-1640). Sau cái chết mờ ám của vua Ponhea Nu năm 1640 quan phụ chính Prah Outey (là hoàng thúc của vua) đưa con mình là Ang Non I (1640-1642) lên ngôi. Vào năm 1642 một người con của vua Chey Chetta II liên hiệp với người Mã Lai nổi dậy giết toàn gia hoàng thúc Prah Outey để lên ngôi xưng hiệu Ponhea Chan I (1642-1659). Sử Việt gọi vị vua này là Nặc Ông Chân. Các hoàng thân thuộc phe cánh Ang Non I vào cung bà Hoàng Thái Hậu Ngọc Vạn xin cầu viện chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687).  Chúa Hiền nhân cơ hội có lời yêu cầu nên hưng binh chinh phạt Chân Lạp vào tháng 10 năm 1658. Quân Chân Lạp thua to tại ngoài khơi Bà Rịa và trận Gò Bích. Quân Nguyễn tiến vào Nam Vang bắt quốc vương Nặc Ông Chân bỏ vào cũi sắt đem về tỉnh Quảng Bình. Vua Nặc Ông Chân chết tại đây. Chúa Hiền đưa Hoàng tử So con trai bà Thái hậu Ngọc Vạn lên ngôi vua lấy hiệu là Batom Réachea  (1658-1672). Vào thời điểm này triều đình Chân Lạp hợp thức hóa chủ quyền của nhà Nguyễn tại Ðồng Nai. Năm 1672 vua Batom Réachea bị ám sát chết. Con trai là Ang Chey tức Nặc Ông Ðài lên nối ngôi. Tân vương dựa thế lực người Xiêm mang quân lấn ép vùng Ðồng Nai. Lưu dân người Việt kêu cứu triều đình chúa Nguyễn lúc đó đóng đô ở Kim Long. Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai các tướng Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Diên Thái và Văn Sùng mang quân tới tận Oudong hỏi tội Nặc Ông Ðài rồi đưa Ang Saur tức Nặc Ông Thu hiệu Chey Chetta IV, em của Nặc Ông Ðài lên ngôi Chính Vương ở Oudong Lục Chân Lạp. Chúa Hiền lại đồng thời cho Ang Non tức Nặc Ông Nộn con trai thứ của bà Ngọc Vạn và vua Chey Chetta II làm Thứ Vương vùng Ðồng Nai –Mô Xoài. Vua Nặc Ông Nộn đóng đô tại Sài Gòn tức Prey Nokor. Lúc đó là năm 1674. Cả hai vị vua Chân Lạp đều phải triều cống xưng thần với chúa Nguyễn tại Kim Long. Vua Nặc Ông Nộn ở Sài Gòn đến khi chết năm 1691 thì toàn quyền cai trị tại đây thuộc về chúa Nguyễn.

IV.             Các di thần nhà Minh xin định cư tại Thủy Chân-Lạp vùng Biên Hòa-Mỹ Tho.

Vào năm 1679 tức năm Khang Hy thứ 18 nhà Ðại Thanh có di thần của nhà cựu Minh bên Tàu vì không cự lại quân Thanh triều đến xin hàng phục nhà Nguyễn. Bọn di thần nhà Minh gồm có Tổng binh Long Môn Dương Ngạn Ðịch, Phó tướng Hoàng Tiến, và Tổng Binh các phủ Cao, Lôi, Liêm là Trần Thượng Xuyên, Phó tướng Trần An Bình mang 3000 binh lính thủ hạ và gia quyến trên 50 chiến thuyền đến cửa Tư Dung và Ðà Nẵng xin được làm thần dân của chúa Nguyễn. Chúa Hiền chấp thuận cho giữ nguyên binh hàm chức tước rồi truyền cho vua Cao Miên cho phép người Minh vào định cư xứ Ðồng Nai và sau đó thay mặt cho nhà Nguyễn lấn dần đến Cần Thơ. Nhờ đợt di cư này mà ảnh hưởng của nhà Nguyễn tại đất Thủy Chân Lạp ngày càng to tát. Các tướng nhà Minh giờ làm quan cho triều đình nhà Nguyễn. Họ cũng góp phần xông pha trận mạc mở rộng lãnh thổ cho nhà Nguyễn, nổi bật là Thống Binh Trần Ðại Ðịnh con của Trần Thượng Xuyên triều chúa Ninh Vương.  Người Minh vốn cùng văn hóa với người Việt nên hợp nhau khai hoang khẩn đất, lập chợ, xây dựng phố phường, buôn bán tấp nập. Những nơi như Gia Ðịnh, Biên Hòa, Thủ Ðức, Cần Thơ không mấy chốc trở nên sầm uất vô cùng. Triều đình nhà Nguyễn lại được dịp có thêm dân thêm đất và thêm thuế thu nhập.
Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần băng hà năm 1687 ở ngôi 39 năm, Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (còn gọi là Trăn) lên thay (1687-1691). Nghĩa Vương dời đô về Phú Xuân (Huế). Trong thời gian chúa mới lên ngôi có một di thần nhà Minh là Hoàng Tiến giết chủ tướng là Dương Ngạn Ðịch ở Mỹ Tho rồi tự xưng là Phấn Dũng Hổ Oai Tướng Quân thống lĩnh quân sĩ Long Môn người Minh đóng đồn ở Ðịnh Tường. Hoàng Tiến thả quân qua Cao Miên cướp của giết người. Vua Cao Miên là Nặc Ông Thu bất bình vì việc làm sai quấy này và ngờ là chủ ý của Thiên Vương nhà Nguyễn. Vua Nặc Ông Thu quyết định bỏ triều cống và chuẩn bị binh lính chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Tháng Giêng năm 1690 Chúa Nghĩa sai lão tướng là Vạn Long mang quân đến Rạch Gầm dàn trận. Vạn Long dùng kế bắt được Hoàng Tiến rồi xua quân qua Cao Miên đánh thốc tới Nam Vang và Long Úc (thành Oudong). Vua Cao Miên cả sợ dâng 30 thớt voi, 150 lạng vàng, 600 lạng bạc, 6 con tê giác để xin hòa và giữ lệ triều cống như xưa. Quan quân nhà Nguyễn rút về Phú Xuân tháng 8 năm đó. Chúa Nghĩa không thọ lâu, ngài băng hà năm 1691 thọ 43 tuổi.
Năm 1698 chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi đánh Cao Miên và kinh lược mấy tỉnh miền nam. Lễ Thành Hầu chia cắt giới phận, canh cải địa điền, kiểm kê nhân khẩu, lập sổ đinh điền cho có nề nếp. Lúc đó toàn miền nam có dân số 40,000 gia đình (hộ) đất đai mở ra 1000 dặm. Thành quả này đạt được trong vòng 70 năm. Sự trù phú của miền nam nhờ một phần vào sự tiếp sức của di thần nhà Minh và chế độ bắt người thổ dân, các dân tộc miền núi về làm nô lệ. Theo lời kể của người phương Tây thì việc buôn bán nô lệ để giúp người Việt canh tác có cả thuế nông nô của triều đình.

V.   Căn Khẩu Quốc - Hà Tiên

Năm 1671 có người Minh tên là Mạc Cửu quê ở Lôi Châu, Quảng Ðông mang gia quyến binh lính 400 người và 10 chiếc thuyền di cư sang Thủy Chân Lạp đổ bộ lên bờ biển Panthaimas vịnh Thái Lan. Mạc Cửu đến Oudong xin yết kiến vua Nặc Ông Thu và ở lại hợp tác giữ chức Óc Nha cho đến năm 1681. Lúc ấy thấy chính sự Chân Lạp rối ren, ông xin vua Chân Lạp cho đi khai khẩn vùng đất hoang Panthaimas. Vua thuận cho. Mặc Cửu chiêu tập đám cướp biển lại mở sòng bạc, chiêu mộ dân phiêu bạt chạy trốn nhà Thanh về lập nên 7 xã là: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Ngoài ra còn có người Ấn Ðộ, người Nam Ðảo, người Kinh, người Thái, người Cao Miên đến sinh sống. Thủ phủ đặt tại Hà Tiên tức Căn Khẩu. Mạc Cử đặt tên vùng đất của mình là ‘Căn Khẩu Quốc’. Lãnh địa này thuộc Chân Lạp nhưng vua Chân Lạp không đủ sức cai quản nên được qui chế tự trị. Không bao lâu Căn Khẩu Quốc của Mạc Cửu trở nên giàu có, người đi vào buôn bán, cờ bạc, đổi chác tấp nập.
Thấy kinh tế vùng Căn Khẩu nổi lên như sóng vua Xiêm chuẩn bị thôn tính vùng đất này. Năm 1678 quân Xiêm tràn sang cướp phá bắt Mặc Cửu và gia quyến về Muang Galapuri (Vạn Tuế Sơn). Hai năm sau nhân lúc nước Xiêm có loạn ông mang quyến thuộc trốn về lại Căn Khẩu. Ông lại bắt tay khôi phục lại Căn Khẩu. Mạc Cửu nhiều lần xin triều đình Chân Lạp cứu nhưng Vương triều Chân Lạp lúc đó quá yếu, tự giữ mình còn không xong nên từ chối không thể giúp gì cho họ Mạc. Năm 1711 Mạc Cửu cùng tùy tùng là Trương Cầu, Lý Xá mang vàng lụa đến gỏ cửa Khuyết ở Huế xin thần phục chúa Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691-1725). Mạc Cửu được giữ chức Tổng Binh toàn quyền cai trị xứ Căn Khẩu mà không phải nộp thuế cho triều đình. Nghe được tin này vua Xiêm cho 20,000 quân tấn công Căn Khẩu quốc, một thuộc địa mới của nhà Nguyễn. Mạc Cửu thua chạy về Gia Ðịnh xin triều đình Huế cứu giúp. Quân Triều Nguyễn đánh đuổi người Xiêm đi và trả lại toàn vẹn đất đai cho Mạc Cửu cai trị nhưng đổi tên Căn Khẩu thànhHà TiênTrấn với mục đích lưu lại dấu ấn của triều đình họ Nguyễn. Sử Cao Miên chép về chuyện này như sau: ‘Năm 1710, sau khi quốc vương Thomo Réachea bỏ thủ đô, Nặc Ông Em lên ngôi. Ðây là lần thứ nhì ngài trị vì. Trong ba năm 1711-1716 và 1722, ngài đẩy lui ba lần tấn công của Thomo Réachea nhờ quân Xiêm trợ giúp. Ngài nhờ triều đình Huế che chở và giúp về mặt quân sự. Ngài phó thác việc phòng thủ các tỉnh Peam (Hà Tiên), Kampot, Kampong Som cả cù lao Phú Quốc cho một người Trung Hoa tên Mạc Cửu. Họ Mặc gốc người Quảng Ðông di cư sang Cao Miên sau khi bị nhà Thanh lật đổ. Ông gầy dựng được sự nghiệp to tát nhờ mở sòng cờ bạc. Ông xây dựng một pháo đài ở Peam, tuyển mộ quân sĩ và thủy thủ. Có lần một hạm đội Xiêm đến gần thị trấn định đổ bộ giúp Thomo Réachéa bị quân Mặc Cửu tiêu diệt gần hết. Tuy nhiên đến năm 1715, Mặc Cửu qui phục chúa Nguyễn, quốc vương Ang Em thuận cho người Việt Nam kiểm soát bờ biển từ miền Nam đến Xiêm. Về sau hoàng triều Cao Miên lấy lại quyền hành trực tiếp hai tỉnh Kampot và Kompong Som, nhưng tỉnh Peam (Hà Tiên) và cù lao Phú Quốc vẫn còn bị hậu duệ của Mặc Cửu cai trị cho vua Việt Nam’.
Mùa hạ năm 1735 Mạc Cửu chết, hưởng thọ 81 tuổi. Ninh Vương Nguyễn Phúc Thụ (có sử ghi là Trú:1725-1739) phong ông làm Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Ðại Tướng Quân, tước Cửu Lộc Hầu. Ðến đời Minh mạng được phong làm Thần hiệu là Thọ Công Thuận Mỹ Trung Ðẳng Thần. Năm 1738 chúa Nguyễn Phúc Thụ ban cho dòng họ Mạc ‘Thất Diệp Phiên Hàn’ (bảy chữ quí tộc) nối đời vinh hiển là: Thiên, Tử, Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ lên nối quyền cai trị Hà Tiên. Con của Tứ là Mạc Công Du, Con của Du là Mạc Hầu Lâm, con của Lâm là Mạc Bá Bình, con của Bình là Mạc Tử Khâm, con của Khâm là Mạc Nam Lan. Bà Nam Lan tuyệt tự hết người thừa kế nhưng cũng vừa tròn bảy chữ vua ban.

VI.             Vùng đất Méso-Longhor tức Mỹ Tho, Vĩnh Long

Năm 1731 quân Chân Lạp đánh Gia Ðịnh. Ninh Vương sai Tướng Trương Phước Vĩnh và Cai Cơ Ðạt Thành cùng tướng quân Trần Ðại Ðịnh (con của Trần Thượng Xuyên người Minh) đem quân ra chống đỡ. Cai Cơ Ðạt Thành bị quân Cao Miên giết ở Bến Lức. Trần Ðại Ðịnh mang quân bản bộ Long Môn đắp đồn Cây Mai ở Sài gòn để cầm cự. Cai đội Nguyễn Cửu Triêm đem quân cứu ứng đến Bến Lức, quân Miên lại rút về Tân An. Tháng 4 năm 1731 Trần Ðại Ðịnh đánh vào Lovek (La Bích). Cha con quốc vương Chân Lạp là Nặc Yêm (Ang Em)Nặc Tha (Satha II) xin nhường đất Mésa (Mỹ Tho) và Longhor (Dinh Long Hồ tức Vĩnh Long bây giờ) để cầu hòa. Chúa Nguyễn sai khổn thần đo đạt đặt thành Châu Ðịnh Viễn và dinh Long Hồ. Riêng Trần Ðại Ðịnh có công không có thưởng lại bị tội. Vốn Ninh Vương nóng lòng chiến thắng nhưng nghe tin Ðại Thành tử trận nên viết thư quở Phước Vĩnh. Phước Vĩnh hãi quá đổ hết tội cho Trần Ðại Ðịnh là người Hoa mưu phản xin mang ra xử trảm. Trần Ðại Ðịnh trốn chạy nhưng không về Quảng Ðông mà ra Huế kêu oan. Chúa sai bỏ vào ngục chờ điều tra rồi mới xử. Khi điều tra ra việc Phước Vĩnh vu oan thì Trần Ðại Ðịnh vì buồn rầu nên bị ốm nặng đã chết. Ninh Vương truy tặng Ðại Ðịnh hàm Ðô Ðốc Ðồng Tri thụy là Trương Mẫn. Trương Phước Vĩnh bị gián xuống làm Cai Ðội.

VII.          Mạc Thiên Tứ nới rộng thêm lãnh thổ cho Nguyễn Vương Ðàng Trong.

Mạc Thiên Tứ cai trị trấn Hà Tiên rất thịnh vượng. Tứ mở văn đàn làm thơ, phổ nhạc, vịnh phú, lập Chiêu Anh Các để chiêu nạp nhân tài. Về võ công Tứ cũng lẫy lừng không kém. Năm 1739 Tứ dẹp tan một trận tấn công của vua Cao Miên. Năm 1747 Tứ dẹp yên bọn cướp biển ở Long Xuyên. Năm 1753 vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên (Ang Snguôn) hà hiếp người Chăm từ Chiêm Thành tị nạn Việt Nam qua Cao Miên đồng thời thông mưu với chúa Trịnh ngoài Bắc để đánh úp chúa Nguyễn đòi lại đất đai đã mất. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765) sai Nguyễn Cư Trinh hưng binh đánh Cao Miên mùa hạ năm 1754. Binh triều đi tới sông Vàm Cỏ thì quân địch cả sợ ra hàng. Nặc Nguyên chạy ra Vĩnh Long. Ở vùng Vàm cỏ Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ người Chăm tị nạn bây giờ không nơi nương tựa có tới 10,000 người và hộ tống họ đi về Ðồng Tháp Mười (Tà Vô Ân). Ở đây phục binh của vua Cao Miên ùa ra đánh giết người Chăm chết mất 5000 người. Quân tiếp ứng của ông Thiện Chính đến không kịp để cứu. Về sau Vũ Vương gián ông Thiện xuống làm Cai Ðội. Nguyễn Cư Trinh cứu được 5000 người Chăm cho về định cư ở núi Bà Ðen, Châu Ðốc. Nguyễn Cư Trinh lại tuyển người Chăm khoẻ mạnh đưa cho khí giới thúc họ đi tiên phong đánh quân Cao Miên. Quân triều đi sau ủng hộ. Thanh thế to lớn nên vua Cao Miên bỏ chạy xuống Hà Tiên nhờ Thiên Tứ cứu mạng. Vua Cao Miên nhờ Tứ xin với Võ Vương cho dâng hai phủ Tầm Bôn (Gò Công) và Lôi Lập (Tân An) để chuộc tội. Chúa Nguyễn thuận cho và truyền cho nhập vào châu Ðịnh Viễn. Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho vua Cao Miên Nặc Ông Nguyên về nước. Vua Cao Miên là Nặc Ông Nguyên băng hà năm 1758. Dòng họ vua Cao Miên tranh nhau làm vua. Mạc Thiên Tứ giúp cho Nặc Ông Tôn làm vua nên được tặng Tầm Phong Lâm (Meat Chruk) tức Châu Ðốc và Sa Ðéc. Nội chiến ở Cao Miên vẫn không dứt. Các vua Cao Miên lại sang triều Nguyễn dâng đất cầu cứu. Thế là Nặc Ông Thuận (Thommo Réchea) hiến Sóc Trăng, Bạc Liêu. Nặc Ông Tôn (Ang Tong) hiến hết đất từ núi Thất Sơn, Sa Ðéc, Kiên Giang và Long Xuyên về sau đều thuộc chủ quyền chúa Nguyễn.
      Từ đây chấm dứt cuộc nam tiến của dân tộc Việt nam. Cuối triều Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát có quyền thần là Trương Phúc Loan ra mặt thao túng. Võ Vương băng hà năm 1765, Trương Phúc Loan phế bỏ tự quân là Phúc Côn lập Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777) 12 tuổi lên ngôi mở đường cho mầm loạn lạc về sau. Sự việc sẽ nói ở phần sau.

VIII.       Luận về những khía cạnh văn hóa ngoài phạm vi đất đai.

Ðến đây dân tộc chúng ta đã tạm dừng chân sau một cuộc hành trình dài. Khởi nguồn từ miền Nam Trung Hoa khu vực rộng lớn phía Nam sông Dương Tử ở một quá khứ xa xôi. Những di dân người Việt vào thế kỷ 17 đã lần đầu tiên nhìn thấy đồng bằng sông Mékong.  Tại đây có đồng bằng, sông lạch, rồi lại đồng bằng. Nhiều đồng bằng hơn cả đồng bằng sông Hồng, một vùng đất duy nhất tổ tiên chúng ta có thể biết được để so sánh. Ðối với một dân tộc sống nhờ vào trồng lúa ngập nước thì vùng đất này là ‘vàng’.  Khi mà nhà Thương Trung Quốc ngày xưa chỉ có 70 dặm mà xưng Ðế thì chúa Nguyễn và dân tộc Việt Nam vào thế kỷ 17 đã có 1000 dặm dư đồ. Một ngàn dặm vàng. Một thành quả không nhỏ.
Miền nam có một khí hậu không bao dung cho nhiều người đến từ phương bắc. Ở đây mưa triền miên 6 tháng rồi lại nắng liên tục 6 tháng. Ðầm lầy đầy những muỗi mồng rắn rít cực độc. Rừng rậm nhiều lau sậy chứa đựng những hiểm nguy khôn lường, những ác thú như cọp, gấu, cá sấu có thể giết và ăn thịt người. Sau rừng cây ẩn hiện những người đờn thổ đen đúa trần truồng tâm tính bất tường đối với chúng ta. Rất có thể những người thổ dân tại đây có những bùa mê ngải lú mà chúng ta không biết? Lo âu! Cả một vùng đất hoàn toàn xa lạ mà những thần linh quen thuộc dường như không còn quyền phép để nhường chỗ cho những quyền lực thần bí khác. Chúng ta có thể phần nào cảm thông được nỗi lo sợ của những người Việt đầu tiên đến đây theo lịnh của chúa Sãi qua câu ca dao xưa: ‘Tới đây non nước lạ lùng, nghe tiếng chim kêu cũng sợ, con cá vẫy vùng cũng lo’. Theo sử liệu triều Nguyễn thì vùng đất mới miền Nam gần như hoang vu, có chăng chỉ là rải rác những srok của người Khmer. Srok tiếng Khmer có nghĩa là vương quốc nhưng cũng lại có nghĩa là một vùng mà cư dân có thể đi lại bằng chân. Tương tự như chúng ta dùng danh từ nước để chỉ nước uống và quốc gia. Tuy thế đơn vị srok vào thời đó lại không có nhà thương, trường học, đạo giáo thì tùy tâm, quan lính thỉnh thoảng mới đến chỉ để thâu thuế và vua thì xa.
Vào thế kỷ 17, vương quốc Chân Lạp ở giai đoạn suy yếu. Một giai đoạn suy yếu đã kéo dài từ thế kỷ 13 sau hơn 1000 năm thành công theo văn hóa Bà La Môn giáo (Hindu). Nhưng với tình thế thay đổi nhanh chóng nền văn hóa cổ này với những hệ lụy đẳng cấp bất di dịch không còn thích hợp với không khí chính trị nơi đây. Người Khmer, trong sự lấn cấn sau khi thất thủ đế đô Angkor đã từ bỏ Bà La Môn giáo để thay vào đó bằng Phật giáo, vốn cũng đã từng tồn tại song song với Bà La Môn giáo nhưng giờ lại trở nên có nhiều ưu thế hơn trong hoàn cảnh mới đầy loạn lạc. Khác với Bà La Môn giáo là đạo thật sự của giới quí tộc cầm quyền mà thôi vì nó giúp cho giới này duy trì quyền lực, Phật giáo tạo một cảm giác bình đẳng cho mọi người. Thế nhưng vương quốc Khmer vẫn không thể tạo lại nét huy hoàng quá khứ. Văn hóa Phật giáo cân bằng sự khắc khe của Bà La Môn giáo nhưng lại mang tính chấp nhận hiện tại như một định mệnh ‘karma’. Tại miền Nam những dấu vết của một đế quốc Phù Nam được dựng lên bởi những võ công bằng thủy quân, một nền kinh tế cường thịnh nhờ thương mãi đã theo những di tích xa xưa chôn vùi trong lớp bùn đất tại Óc Eo. Người di dân Việt Nam sau cùng đã đến đây để chinh phục vào thế kỷ 17. Người Việt sau 4000 năm Nam tiến giờ đã mang trong mình nhiều dòng máu pha trộn của người Việt cổ, Lạc hầu lạc tướng gốc Mường, Hán tộc, Chăm, Nam đảo-Malay-Polynésiên và giờ đây những cuộc hôn nhân giữa Việt-Cao Miên lại cho chúng ta yếu tố Môn-Khmer trong dòng máu người miền Nam.
Dù không đem thành bại luận anh hùng, yếu tố quyết định cho sự thành công hay thất bại của một dân tộc vẫn là yếu tố văn hóa. Ðặt biệt là văn hóa tổ chức. Di dân Việt Nam là một tạp chủng về mặt huyết thống nhưng văn hóa lại là văn hóa Khổng-Mạnh của Trung Hoa đề cao sự học và phục tùng mệnh lệnh. Vì đề cao sự học nên không có phân chia đẳng cấp vĩnh viễn của Bà La Môn giáo. Một người bần dân nếu học giỏi vẫn trở thành Công Hầu vinh hiển trong một kiếp người và ngược lại từ Công Hầu có thể trở thành ‘Cai Ðội’ ngay nhãn tiền nếu bất tuân thượng lịnh. Thêm vào đó người Việt Nam lại cũng có thêm chút đỉnh Phật giáo nhưng đa phần là đạo thờ tổ tiên và vai trò phụ nữ trong gia đình vẫn hãy còn mạnh. Một chút gì sót lại của chế độ mẫu hệ mà người Chiêm Thành và người Việt cổ cùng chia sẻ. Ðến đây chúng ta có cảm tưởng chỉ có một hướng đi xuống phương nam mà thôi. Thực ra không phải thế.  Từ thượng cổ trước thời điểm có sự phân chia quốc gia, Hán tộc tức người Tàu hay Trung Hoa chỉ tập trung ở khu vực sông Hoàng Hà, cái nôi của nền văn minh Trung Hoa. Chung quanh họ lúc đó không phải là đất hoang mà là nơi tập trung của những giống dân khác trong đó có Việt tộc. Người Việt cổ, cứ coi là man di thật sự đi, đã cộng cư với những giống dân ‘man di mọi rợ’ anh em khác như Chăm cổ, Malay-Polynesien cổ từ phía nam kéo lên phương bắc. Trong giai đoạn khủng hoảng tranh chấp giữa nhóm người ‘văn minh’ với hào quang của những tiến bộ của người Hán, nhóm người ‘man di’ anh em trở thành thù địch. Thù địch rồi lại trở thành anh em để chống lại Hán tộc. Chiến tranh rồi lại hoà bình. Hoà bình rồi lại chiến tranh. Cứ thế từng đợt người lại kéo ngược về phương nam chinh phục những vùng đất cũ giờ lại thành ‘mới’. Ðến đầu thề kỷ 19 nền văn hóa Phật-Khổng Mạnh lại bị văn hóa của người Pháp da trắng từ xa đến chinh phục.

Tài liệu tham khảo:

1. Charles Kimball 2000: The history of Funan
2. History of the Kingdom of Cambodia by the Royal Government of Cambodia website.
3. Nguyễn Hữu Hiếu 2001: Chúa Nguyễn và các giai thoại mở đất phương nam
4. Phạm Văn Sơn 1960: Việt sử toàn thư
5. Ðại Nam thực lục tiền biên
6. Lê Hương 1970: Sử Cao Miên.
7. Serge Thion 1988: Remodelling broken images: manipulation of identities. Towards and beyond the Nation

(Trích từ Viễn Tượng Việt Nam số 3, tháng 10, 2004)
END.
*******************************************************

Bước Nam tiến thứ Tư
và vai trò của 2 Công nữ Chúa Nguyễn

Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, do áp lực từ các cuộc tấn công của chúa Trịnh từ phương bắc và nhu cầu mở rộng đất đai về phương nam, các chúa Nguyễn đã bắt đầu một công cuộc mở mang nhanh, mạnh bờ cõi Việt Nam về phía nam. Quá trình này chấm dứt sự tồn tại 17 thế kỷ của vương quốc Chăm Pa. Bước này chia thành nhiều giai đoạn khác nhau:                 .

Năm 1611, Nguyễn Hoàng (
阮潢,1558-1612) đánh Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuy Hòa, nay thuộc Phú Yên.                       .

Khi đó, vùng đất Nam Bộ nay thuộc quyền cai quản của Thủy Chân Lạp còn là vùng đất sình lầy, nước mặn, chẳng trồng trọt gì được, thỉnh thoảng mới có một một vùng đất cao để làm vườn làm nhà, đường giao thông lại không có, dân cư thưa thớt. Các quan lại Thủy Chân Lạp (di huệ của Chân Lạp) cũng quản lý rất lỏng lẻo, đất đai bỏ hoang, trộm cắp hoành hành, thú dữ rập rình. Trong bối cảnh đó, đồng thời với việc Chúa Nguyễn tổ chức khai thác miền đất đã chiếm được của Chiêm Thành, nhiều dân Việt ở Đàng Trong bỏ dải đất miền Trung khắc nghiệt, vào khai khẩn đất làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai, phải tốn công đắp đê ngăn nước mặn, đào mương, đúc cống, chật vật và họ cũng tổ chức buôn bán ở Sài Gòn. Trong quá trình đó họ không gặp phản kháng gì đặc biệt của Chân Lạp.                          .

Nhằm rảnh tay đối phó với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài và tranh giành ảnh hưởng với người Bồ ở Chiêm Thành, năm 1631 Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên (
阮福元, 1613-1635) học tập vua nhà Trần đã đi một nước cờ cao “đổi giai nhân lấy bình yên”.                       .

Một trong những người thiếp của ông là Nguyễn Thị Giai (
阮氏, 1578-1630) trưởng nữ của Khiêm vương Mạc Kính Điển 莫敬典 mà Kính Điển lại chính là cháu Mạc Đăng Doanh (莫登瀛, 1530-1540), chắt Mạc Đăng Dung (莫登庸, 1527-1530). Khi nhà Mạc thất cơ (1592), Kính Điển tử trận em là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng có đem theo con Kính Điển cùng đi. Người con gái đó được  Nguyễn Thị Ngọc Dương (vợ Cảnh Huống, dì Phúc Nguyên)  tiến cháu vào hầu Phúc Nguyên khi cha Sãi vương là Nguyễn Hoàng còn tại vị và vì thế nên con Mạc Kính Điển lại mang họ Nguyễn. Chính Nguyễn Thị Giai là thân mẫu của Nhị Công nữ Ngọc Van 玉萬公女  và Tam Công nữ Ngọc Khoa, hai giai nhân góp công trong việc mở mang bờ cõi Đại Việt về phía Nam. Như vậy 2 Công nữ của Chúa Nguyễn có công đặt bàn đạp Nam tiến cho Đại Việt là thuộc dòng dõi nhà Mạc (1527-1592) vốn phát tích ở Cổ Trai, Dương Kinh, Hải Phòng và là hậu duệ của Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.
Năm 1623 chúa Nguyễn Phúc Nguyên (阮福元, Chúa Sãi, 1613-1634) gây áp lực với Chân Lạp, “mượn” vùng đất Prey Nokor (Sài Gòn ngày nay) đặt trạm và quan chức thu thuế lưu dân Việt đang sinh sống xung quanh ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa. Nhờ sự tác động của hoàng hậu Somdach Prea Peaccayo dey Preavoreac Ksattecey (tức Ngọc Vạn Công nữ 玉萬公女, người con gái thứ hai của Sãi Vương được Chúa gả cho vua Chân Lạp là Chey-Chetta II vào năm 1620), vua Chân Lạp đồng ý cho người Việt đến đó canh tác. Đây là lần đầu tiên quan binh Đại Việt chính thức đặt chân lên đất Chân Lạp, và Mô Xoài là bàn đạp để người Việt dần dần tiến xuống đồng bằng sông Cửu Long, một bước đặt nền từ chủ trương hôn phối.                                                         .

Năm 1631 Sãi vương gả tam Công nữ là Ngọc Khoa
玉姱公女 cho vua Chiêm Porome kết tình hoà hiếu và đây cũng là nguyên nhân mà từ 1639 người Bồ Đào Nha không giao thương với Chiêm nữa. Truyền thuyết cũng như tục ngữ Chiêm Thành đều có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng bà Ngọc Khoa đã làm cho vua Po Romê trở nên mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ. Năm 1653 vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm nhằm đòi lại đất Phú Yên đã đưa quân ra đánh chiếm. Chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần (阮福瀕,1648-1687) sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm phủ Thái Ninh, sau đổi làm phủ Diên Khánh, nay thuộc Khánh Hòa. Tại đây đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú.                                                            .

Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần (
阮福瀕, 1648-1687) đã giúp một hoàng thân Chân Lạp lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai và Bà Rịa. Lúc này Tiêm La (hậu duệ của Phù Nam cũ) đã mạnh nên muốn giang tay ra phía Đông tới đây nhưng vì nhà Nguyễn đang mạnh nên phải thôi. Tại khu vực này lưu dân Việt sinh sống ngày càng đông đúc, chúa Nguyễn đã cử một đội quân mạnh để giữ gìn an ninh cũng như đặt các quan cai trị và thu thuế.
Năm 1679 có quan nhà Minh gồm Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến là Tổng binh Trấn thủ đất Long môn (Quảng Tây), Trần Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình là tổng binh châu Cao, Lôi, Liêm (Quảng Đông) không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 người cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Đại Việt. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (Gia Định). Những người này chia nhau ở đất Lộc Đã (Đồng Nai), Ban Lân (Biên Hòa) và Mỹ Tho (Tiền Giang), cày ruộng, làm nhà, lập ra phường phố, có người phương Tây, người Nhật Bản, người Chà Và đến buôn bán khá đông.

Năm 1680 Mạc Cửu, người gốc Quảng Đông, khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh đã cùng gia quyến bỏ sang Chân Lạp, mở sòng bạc và cai quản 7 xã gồm toàn lưu dân, gọi là Hà Tiên. Mạc Cửu mở rộng đất đai gồm vùng đất Hà Tiên, Rạch Giá, Phú Quốc vốn thuộc Chân Lạp nhưng Chân Lạp không kiểm soát được. Năm 1718 để tránh áp lực thường xuyên của Xiêm La sang cướp phá, Mạc Cửu đã dâng đất khai phá xin nội thuộc về chúa Nguyễn, chúa Phúc Chu đổi tên thành Trấn Hà Tiên, phong cho Mạc Cửu làm chức Tổng binh, cai quản đất Hà Tiên. Khi Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lại được làm chức đô đốc, tiếp tục cai quản Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và đưa người về dạy học để khai hóa đất Hà Tiên.                                                                .

Năm 1693 với lý do vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn Phúc Chu (
阮福周, Chúa Quốc,1691-1725) sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh cùng thân thuộc về Phú Xuân (Huế). Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận Phủ, nay thuộc Bình Thuận. Đất này cho con cháu của Bà Tranh làm đề đốc trấn giữ, bắt đổi y phục như người Việt Nam để phủ dụ dân Chiêm Thành.

Tuy nhiên, do sự kháng cự của người Champa và cũng cần tập trung cho việc khai phá đồng của Chân Lạp nên qua năm 1695, chúa Quốc đổi Thuận Phủ ra làm Thuận Thành Trấn, dành cho người Chăm cơ chế tự trị nhưng vẫn thuộc sự bảo hộ của chúa Nguyễn. Đến năm 1832, vua Minh Mạng (
明命皇帝,1820-1840) xóa bỏ cơ chế tự trị, lập thành tỉnh Bình Thuận.Việc này đồng nghĩa với việc Vương quốc Chăm Pa chính thức không còn tồn tại.

Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu  (
阮福啁, 1691-1725) sai Nguyễn Hữu Cảnh làm kinh lược đất Chân Lạp. Ông chia đất Đông Phố của những người Tàu ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Ông đặt Trấn Biên dinh (Biên Hòa), đất Trấn Biên thì lập làm xã Thanh Hà, và Phan Trấn dinh (Gia Định), đất Phan Trấn thì lập làm xã Minh Hương, rồi sai quan vào cai trị. Chúa Nguyễn lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất, lập sổ bộ nước Việt.
Năm 1699, triều đình Chân Lạp tổ chức một cuộc phản công nhằm dành lại nhưng bị thất bại.

Năm 1739 Mạc Thiên Tứ mở rộng đất đai kiểm soát của mình sang bán đảo Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Sóc Trăng. Đưa thêm các vùng đất mới này vào Trấn Hà Tiên thuộc lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn
Năm 1753, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên thông sứ với chúa Trịnh ở ngoài Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát (阮福闊,Võ Vương, 1738-1765) sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1755, Nặc Nguyên (Ang Tong) thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Long Xuyên và Cần Thơ) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.
Năm 1757 Nặc Nguyên (Ang Tong) mất, chú họ là Nặc Nhuận đang xin chúa Nguyễn phong cho làm vua thì bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (阮福闊, 1738-1765) cho lập Nặc Tôn (Outey II), con Nặc Nhuận, vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn, làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc, Vĩnh Long, Trà Vinh) để tạ ơn chúa Nguyễn. Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ (5 phủ này về sau khi Pháp thành lập Liên bang Đông Dương đã cắt trả về cho Cao Miên, ngày nay là 2 tỉnh Takéo và Kampot). Vương quốc Chân Lạp chính thức chấm dứt sự tồn tại. Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên cai quản.                                                .

Cuộc Nam tiến của Đại Việt đến đây kết thúc bởi phía trước đã là biển (Vịnh Thái Lan). Sau này quan dân Đại Việt luôn tâm niệm về cội nguồn Văn Lang của mình:

Từ thủa mang gươm đi mở cõi,
Ngàn năm thương nhớ đất Thắng Long.


Nguồn:
http://hoptuyenlsvh.blogspot.com/2005/02/tn-mn-v-qu-trnh-m-mang-b-ci-t-nc-vit.html
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_ti%E1%BA%BFn
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A3nh_th%E1%BB%95_Vi%E1%BB%87t_Nam_qua_t%E1%BB%ABng_th%E1%BB%9Di_k%E1%BB%B3
http://www.vn.net/article.php/2008053123023240
õ
PHẦN 4 :  THỰC  TẬP
1.      Năm 1471 thì bờ biển phía nam của nước Chiêm và Chân Lạp tiến tới đâu ?
2.      Nói rõ ý nghĩa của các danh từ : Phù Nam ; Côn Nam và Bồn Man
3.      Hiện ngày hôm nay dân Phù Nam, Côn Man hay Bồn Man hiện đang ỏ đâu mà không thấy tăm hơi đâu cả ? Nếu bị diệt chủng thì bị diệt vào năm nào, và dân tộc nào đã diệt họ ?
4.      Ai là người khai phá để biến đất bồi miền Nam (Phù Nam) thành thị trấn ?
5.      Có chiến tranh vũ trang giữa dân Việt và dân Chân Lạp không ? Nếu có thì nói rõ các năm binh biến.
6.      Nói rõ thời điểm lập quốc, lý do lập quốc và cương vực lúc lập quốc của : Nước Văn Lang, Nước Chiêm và nước Chân Lạp.
7.      Nói rõ sự khác biệt giữa nước Chiêm và xứ Chiêm Thành.
8.      Nói sơ lược lịch sử của nước Chân Lạp : Từ Thủy và Lục Chân Lạp đến Vương Quốc Angkor và Triều Đình Phnom Penh.
9.      Nói rõ nguồn gốc của dòng Norodom (Nặc Ông).
10.   Nói sơ lược về sự binh biến giữa Chiêm và Việt trong giai đoạn từ 1069 tới 1470.
11.   Nguyễn Hoàng là ai ? Ái quốc hay con buôn chánh trị ?
12.   Tại sao Nguyễn Kim lại mưu đồ đại sự, quyất lập nghiệp Đế trên xương máu dân Việt bằng bất cứ giá náo ?
13.   Thiết lập bảng so sánh Nguyễn Kim với Hồ Chí Minh. : Con người và âm mưu phá nước cho nghiệp Đế của mình.
14.   Các chúa Nguyễn có đại diện cho dântộc Việt hay không ? Tại sao ?
15.   Hãy nói sơ lược về công đức của các chúa Nguyễn từ năm 1613 đến 1765 : Kinh tế và Lãnh thổ.
16.   Tại sao sách nói Chiêm Thành (Ninh Thuận và Bình Thuận) là một nước ?
17.   Nếu Chiêm Thành là một nước thì :
a.      Bằng cách nào mà các chúa Nguyễn có thể khai khẩn mảnh đất Phù Nam thành Châu, thành quận được ?
b.     Nếu nói vì lý do Thông Thương nên chúa Minh Vương phải đánh nước Chiêm Thành có hợp lý (logic) hay không ? Nếu không thì lý do chánh là gì ?
18.   Tại sao chúa Nguyễn Phúc Chu (Minh Vương) đã xóa bỏ chế độ tự trị vùng Chiêm Thành (1693) lại phải cho phục hồi chế độ tự trị (1697)?
19.   Ai đã thoán nghịch ngôi chúa Nguyễn ? Ai đả giật sập uy quyền của chúa Nguyễn ?
20.   Mạc Cửu là ai ? Đến Hà Tiên năm nào ?
21.   Tại sao Mạc Cửu xây dựng thương cảng Hà Tiên mà một quốc gia hay chánh phủ nào (Việt, Thái, Khmer) phản đối cả ?
END
-----------------------------------------------------------------------------


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét