Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

Bài số 2.09: LỊCH SỬ NƯỚC CHIÊM

Nhân Văn Việt Tộc
Bài số 2.09B3
(năm thứ nhì, bài số 9                                                                                   Soạn giả: Nam Định
nhuận lần thứ ba B3)                                                                              DRANCY 20/12/2013
                                                       

LỊCH  SỬ  NƯỚC  CHIÊM
(từ năm 40 sau tây lịch đến năm 1471)

Cách dùng danh xưng
Muốn kết hợp tất cả các sắc tộc trên mảnh đất Việt Nam hiện có, thì bắt buộc người dân phải tôn kính lẫn nhau thì mới có thể có một xã hội hài hòa và bình đẳng được.
Chúng ta có nhiều cách để xây dựng xã hội lý tưởng này do chính thế hệ đương thời sáng tạo ra; nhưng thiết nghĩ là ngày xưa tổ tiên chúng ta đã thành công rất nhiều lần bằng cách xây dựng cái Tâm và cái Hồn của người dân để có Hoà Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa như thời Hùng Vương, thời Việt Vương Câu Tiễn (600BC) sát nhập nước Ngô vào nước Văn Lang, thời Triệu Đà (207BC) người Việt gốc Ngô, thời vua Lê Thánh Tôn (1471) sát nhập nước Chiêm vào nước Việt, thời Tây Sơn (1789) không những thống nhất đất nước mà còn thống nhất luôn lòng người sau 200 năm chia cách làm 2 dân tộc cho quyền lợi của 2 dòng họ Trịnh và Nguyễn....
Ngày hôm nay lòng người vẫn còn ly tán là do chế độ Cộng Sản gây ra từ năm 1945 với mục đích xóa bỏ quốc gia Đại Việt để đi đến Đại Đồng Thế Giới trong u muội. Đây là hành động ngông cuồng tự sát mà cứ ngỡ là vinh dự làm Nghĩa Vụ Quốc Tế cho Nga, cho Tàu hưởng.

Vậy thì không có lý do gì để không làm được việc kết hợp toàn dân, khi Việt Cộng ra đi? Vì mục đích này nên bài lịch sử nước Chiêm được soạn ra để chúng ta biết đường Kết Hợp Toàn Dân thì mới có sức mạnh đoàn kết để bảo vệ sức sống của đất nước Đại Việt được.
Chữ đại ở đây là Đại về Tâm Hồn và Đại về Văn Hóa như Quốc Sư Nguyễn Trãi đã nói trong bài Bình Ngô Đại Cáo:
Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi Văn Hiến chi Bang
Chuyển sang văn xuôi là:
Chỉ có nước Đại Việt của ta, thực sự đi vào từng tiểu bang một thì tất cả đều có nền Văn Hiến Nhân Bản của loài người (tức là nhân hậu, lấy tình người làm trọng)
Muốn như vậy thì trước hết là phải để ý đến danh xưng cho đúng cách. Trong 3 danh xưng Chàm; Chiêm và Hời thì chúng ta nên dùng danh xưng nào đây?
Nếu biết rõ nguồn gốc của danh xưng thì việc đi tìm sự thật của lịch sử cũng dễ dàng hơn là không biết gì về ý nghĩa của nó. Tuy chưa tìm thấy gốc gác của danh từ nhưng theo ý nghĩa của chữ thì chúng ta cũng có thể đoán ra được và sử dụng ngôn từ trong sự tôn kính nhau là điều cần phải có để hóa đồng sắc tộc trên mảnh đất Việt Nam.
Nước Chiêm khác với nước Chiêm Thành. Chiêm Thành là một châu gồm 2 tỉnh Ninh Thuận (Phan Rang) và Bình Thuận (Phan Thiết). Còn nước Chiêm từ đèo Hải Vân vào đến tận Phan Thiết. Phía tây gồm cả Kontum, Pleiku và Darlac.

-     Chữ Chiêm có lẽ là tự họ đặt tên với ý nghĩa tốt cho dân tộc của họ. Chiêm có nghĩa là kính cẩn, cung nghinh như chữ chiêm bái, chiêm ngưỡng. Họ muốn người khác phải tôn kính dân tộc của họ là chuyện bình thường. Và cũng nhiều lần họ đã làm cho chúng ta phải nể phục; vua tôi nhà Trần đã phải di tản khiếp vía...vua bị chặt đầu. Cả nhà Đinh cũng vậy.
-     Chữ Chàm có lẽ là người Việt đặt cho họ với ngụ ý coi thường; vì màu da của họ ngăm ngăm đen. Tiếc rằng tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây (Nguyễn Du).
-     Chữ Hời có lẽ là vì họ theo đạo Hồi.
Nếu đúng như vậy thì chúng ta nên gọi họ là sắc tộc Chiêm Việt, tức người Việt gốc Chiêm như sắc dân ở vùng Chiết Giang là dân Ngô Việt: Người Việt gốc Ngô bị Việt Vương Câu Tiễn sát nhập vào nước Văn Lang vào khoảng 600BC; danh xưng này hiện nay người Tàu vẫn dùng và chính người ở Chiết Giang vẫn công nhận họ là dân Ngô Việt (WU YEU, Wu là Ngô và Yeu, hay Yeuh là Việt)....Người ở vùng Giang Nam (phía nam sông Dương Tử là người Việt bị Hán hóa; chứ họ không phải là gốc Hán (hay Hoa tức Trung Hoa). Khi họ trở về làm dân Việt thì gọi là hồi tịch hay về nguồn, chứ không phải người Việt gốc Hoa.
·      Coi bản đồ đính kèm do Bắc Kinh vẽ ngày hôm nay thì rõ.
w

Bài này được chia làm 4 phần:
       Phần 1 : Giáo Khoa tóm lược các điểm chính để dễ nhớ. Gồm 2 phần là ôn cốtri tân.
       Phần 2 : Tham Luận dành cho Giảng Viên để hiểu rõ các điểm chính của bài học.
       Phần 3 : Trau dồi kiến thức dành cho những ai muốn tìm hiểu bài học rộng hơn.
       Phần 4 : Thực tập, trả lời những câu hỏi để kiểm xem đã hiểu thấu triệt bài học hay chưa.


Phần 1 : Giáo Khoa

Ôn cố:
Trước Đại Hồng Thủy:
13.000BC (cách đây 15.000 năm), mực nước biển Đông thấp hơn ngày hôm nay là 130,5m. Nước Việt Nam với Phi Luật Tân và Nam Dương Quần đảo là đất liền, phủ đầy băng tuyến.
Dân cư sống ở ven biển Đông bằng cách lượm tôm cá măc cạn. Về sau mới tìm cách trồng lúa nước (tức lúa chiêm) để bảo đảm đời sống. Lúc này là lúc sống quần cư và ổn cư, dân số bắt đầu gia tăng. Ở thời điểm này nhân số trên toàn thế giới chưa tới 2 triệu người. Phần lớn là chết vì đói và vì không có kinh nghiệm nuôi trẻ sơ sinh.
Vì nhu cầu thông tin nên bắt đầu phát sinh ra tiếng nói để diễn tả tư tưởng ở trình độ sơ đẳng.

Đại Hồng Thủy:
60.000BC mực nước biển Đông cao hơn ngày hôm nay là 10,3m, mỗi năm nước dâng cao trung bình là 2cm, dân cư di dần lên cao theo mực nước. Như vậy là nuớc biển tiến đến chân núi Hymalaya (Hy-mã-lạp sơn) ở Tibet và chân núi Trường Sơn ở Việt Nam. Di dân đem theo nghề nông để sinh sống. Đây là thời đại đồ đồng, người dân đã văn minh hơn thời đồ đá.
Nước biển lên hay xuống là tùy thuộc vào sự nóng hay lạnh của bàu không khí. Lý do gì thì chưa biết; chỉ biết là hiện nay loài người đang hâm nóng bàu không khí để tạo trận Đại Hồng Thủy bằng cách xả nhiệt và khí độc vào bàu không khí mà ta gọi là tàn phá môi sinh.

Sau Đại Hồng Thủy:
3.500BC (tức cách đây 5.500 năm), thì nước biển tụt xuống bằng mực nước ngày hôm nay. Lúc này đồng bằng Bắc Việt (sông Hồng) chưa có, và đồng bằng sông Cửu Long (Nam Việt) cũng chưa có.

Dân cư lại theo triền 5 con sông lớn ra biển làm ăn, cày cấy. Đây là thời đại đồ đồng tinh xảo, nhưng chưa tới đồ sắt.

Năm con sông lớn chảy ra biển là: Hoàng Hà (chảy qua Bắc Kinh); Dương Tử chảy ra Thượng Hải, Tây Giang chảy qua Hong Kong, sông Hồng chảy qua Thăng Long và sông Cửu Long chảy vào miền Nam Việt Nam: Cửa biển lúc đó là Phan Thiết, Phnom Pênh, Biển hồ Tonlé Sap; các đảo Côn Sơn, Phú Quốc hoang vu, xa đất liền, không người sinh sống. Đồng bằng sông Cửu Long chưa có.

Thời đó chưa có chữ viết nên người ta để kinh nghiệm lại bằng chuyện truyền khẩu qua: Ca-dao, Tục-ngữ, Văn-vần và Huyền Thoại là thể văn xuôi ở thời đó.
Từ ngày có phương tiện để ghi bằng bút (chữ viết hay Ký Tự) trên mành mành đi đâu thì cuốn lại rồi sách đi nên gọi là cuốn sách (coi sớ táo công ở thời xưa thì biết). Lúc này thì số lượng chuyện Huyền Thoại ít dần đi. Vậy thì chữ viết (hay ký tự) có sớm lắm là sau 600BC, tức ở thời kỳ đồ sắt non có dao chẻ lạt và có cưa để cưa tre ra từng đoạn một.

Để dễ nhớ người ta đặt tên cho các nhóm như sau:
Ø     Di theo sông "Hoàng Hà" là con cháu Đế Nghi.
Ø     Di theo sông "Dương Tử", "Tây Giang", "Hồng Hà" và sông "Mã" chảy ra Thanh Hóa là con cháu Lộc Tục. Sông Dương Tử còn gọi là Trường Giang và Tây Giang được gọi là Đại Giang, nơi Câu Tiễn vượt sông đi tù dưới triều vua Ngô Phù Sai (#600BC)
Ø     Di theo sông Cửu Long là dân Chiêm và Khmer là loại dân An Bình vì không nằm trong vùng tranh chấp giữa Ngô, Sở và Việt.
Tất cả các sắc dân này đều là Miêu tộc cả, sống bằng nghề nông; theo văn hóa nông nghiệp. Miêu có nghĩa là Mễ, tức ngũ cốc thuộc nông nghiệp.
Còn Tàu là dân Du-mục từ Trung Đông (IRAN) di qua bằng ngả KAZAKSTAN rồi tràn xuống sông Hoàng Hà thống trị con cháu Đế Nghi vào thời nhà Hạ 1.700BC, nhà Thương 1.500BC, nhà Chu 1.122BC, nhà Tần, nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh...Cách mạng Tam Dân của Tôn Dật Tiên (người Hoa gốc Việt ở Quảng Đông vào năm 1.911 sau tây lịch), Quốc Cộng (Tưởng-Mao) phân tranh (1.930 sau tây lịch).
Danh từ Tàu là do Triệu Việt Vương (Triệu Đà) đặt cho họ vào năm 182BC để đối kháng với danh từ Trung Hoa của Lã Hậu, vợ Hán Cao Tổ (tức Lưu Bang); giống như chữ Việt với bộ Tẩu bên cạnh chữ Tuất là ngụ ý chó bị vồ đập nên phải chạy về phương nam để nhường đất cho người Tàu sinh sống là do Mã Viện đặt ra sau khi đặt ách thống trị vào năm 43 sau tây lịch; đồng thời với Đồng Trụ Chiết, Giao Chỉ Diệt được trồng trên một ngọn đồi nào đó ở núi Ba Vì hay Tam Đảo. Theo đúng lý mà suy ra thì đây là bùa yểm, hai bên phải đấu trí với nhau (coi bài Thế hệ Mê Linh, bài học số 05 do Giảng Sư Trần Vũ Khiêm giảng giải vào tháng Août 2013).
Tóm lược các thời đại:
Bắt đầu là thời đại đồ đá, rồi đến đồ gốm (đất nung) có cách đây ít nhất là 20.000 năm (tức 18.000BC); sau đó là đồ đồng, đồ sắt non (khoảng 600BC), rồi mới đến thép, sau mới đến cơ khí ở thế kỷ thứ 19, và điện tử ở cuối thế kỷ thứ 20, rồi đến toàn cầu hóa thế kỷ thứ 21.......). Nhờ có đồ gốm để luộc tôm, luộc cá nên khi đói mới luộc khoai, sắn và lúa để húp cháo. Sau đó mới nghĩ cách trồng lúa nước được xác định là ở thời điểm 13.000BC
w

LỊCH  SỬ  VIỆT  VÀ  CHIÊM
Người Việt lập quốc:

Năm 2.879BC, để tự vệ trước sự xâm lăng của nước Ngô nên 15 sắc tộc Việt lập nên nước Văn Lang.
a.    Cương vực từ sông Tây Giang chảy ra Hong Kong đến tận đèo Hải Vân ngày hôm nay. Phía Tây đến lưu vực sông Cửu Long (Mékong). Lúc đó có mời dân Chàm vào Liên Bang Việt thì họ từ chối vì không muốn đóng góp cho tiền tuyến ở quá xa là Âu Việt (Quảng Tây) và Lạc Việt (Quảng Đông).
b.    Biên giới phía Nam của nước Văn Lang là vùng đất Việt Thường từ Thanh Hóa vào đến đèo Hải Vân (Thanh-Hóa, Nghệ-An, Hà-Tĩnh, Quảng-Bình, Quảng-Trị và Thừa Thiên).
c.    Từ Hà-Tĩnh vào đến đèo Hải Vân (khi xưa gọi là Ải Vân) là chiến khu Lâm-Âp (ấp chiến lược trong rừng) bất khả xâm phạm.
d.   Sông Gianh chảy qua tỉnh lỵ Đồng Hới, thuộc trấn Quảng Bình là khúc sông lịch sử không những giữa thời Trịnh Nguyễn phân tranh mà còn là lịch sử dưới thời nhà Ðường bị quân Chiêm vượt qua tấn chiếm đến tận đèo Ngang vào cuối thế kỷ thứ 8.
e.    (Chữ Trấn đổi thành Tỉnh là do quyết định của vua Minh Mạng vào năm 1820. Trấn là tiếng Việt, Tỉnh là tiếng Tàu)


Người Chiêm lập quốc
Năm thứ 40 sau tây lịch, dân Chiêm lập quốc để ngăn quân Mã Viện từ đảo Hải Nam (chuyện cổ An Tiêm với quả dưa hấu) đổ quân vào Quy Nhơn để đánh thốc lên chiến khu Lâm Ấp của Việt Thường.
1)      Cương vực nước Chiêm lúc đó là: Từ đèo Ải Vân (nay gọi là Hải Vân) đến hết Phan Thiết bây giờ; lúc đó là ven biển. Đồng bằng Cửu Long chưa có.
2)      Phía tây gồm tỉnh Kontum (thị trấn là Kontum), tỉnh Gia Lai (thị trấn là Pleiku), và tỉnh Darlac (thị trấn là Buôn Mê Thuột, lúc này Đà Lạt là rừng núi hoang vu không người ở).
²
Người Chiêm xâm lăng Chân Lạp:
Khoảng năm thứ 450 sau dương lịch, nước Chiêm đánh chiếm đất Chân Lạp (Khmer) qua ngả Buôn Mê Thuột thuộc tỉnh Darlac. Người Chân Lạp phải lập quốc để tự vệ.
-    Trung tâm chỉ huy đặt ở Bát-Xắc (phía bắc nước Khmer ngày hôm nay).
-    Ðịa bàn hoạt động nằm trong vùng Kông-Pông-Chàm. Lúc này bờ biển tiến sát Phnom Pênh và biển hồ Tonlé Sap; vì đồng bằng sông Cửu Long chưa được bồi.
Về sau, vì nhu cầu kinh tế nên dân Chân Lạp tiến xuống phía nam để khai khẩn đất bồi ở phía tây, được gọi là Phù Nam (đất bồi ở phương nam); tức thềm lục địa của họ. Năm 450 sau dương lịch chưa có đất Phù Nam và hơn nữa dân số còn ít nên phải ở lại để giữ đất. Còn bỏ đi thì dân Chiêm đến liền, khác chi: Mỡ treo miệng mèo!
-   Vì dân số quá thưa thớt nên đất bồi bỏ hoang, dân chài lưới ở tứ xứ đi biển đánh cá vào tá túc và khai khẩn mảnh đất đã hoàn toàn nhô lên trên mặt nước được gọi là BÔN; ở đó có rắn rết, có chim hải âu, muỗi độc, cá sấu, ba-ba sát hại; có cây giữ đất như: sậy, sú, đước, tràm...... nước mặn có phèn chua khó sống.
Vì bắt buộc phải tự vệ theo luật biển, cá lớn nuốt cá bè, nên các dân anh chị hung dữ này được gọi là dân Bôn-man; hay Côn-man. Côn là cây gậy, man là người thiếu văn minh. Bôn-man là người dân tứ xứ sống lang thang trên vùng đất bồi
-   Dân chài lưới Chiêm, Việt hay tứ xứ như Mã Lai..... cũng đều đến tá túc các vùng này khi biển động; và cũng phải sống theo luật biển nên họ cũng thuộc bọn Côn-man, nay gọi là bọn du côn hay thế lực đen đánh thuê chém mướn.
²
Chiêm xâm lăng Việt 30 lần, nhiều hơn người Tàu:
1.      Thời nô lệ nhà Ðường (618-907): Lợi dụng quân Lâm Ấp giải vây Giao Châu (khoảng 800AD), quân Chiêm đánh chiếm 2/3 chiến khu Lâm Ấp, vượt sông Gianh đến tận đèo Ngang là: Thừa Thiên (châu Lý), Quảng Trị (châu Ô) và Quảng Bình. Lúc đó chiến khu Lâm Ấp chỉ còn mỗi tỉnh Hà Tĩnh.
·   Về sau độc lập rồi mà dân Việt cũng không dám lên tiếng đòi phần đất đã bị mất này.
Lý do: Vì yếu nên sợ dân Chiêm như sợ cọp vậy. Diện tích nước Việt bé hơn nước Chiêm, người Việt phải chống ngoại xâm trong khi người Chiêm vui hưởng thanh bình.
2.      Khi Ðinh Bộ Lĩnh giành lại tự chủ (968 sau dương lịch), đặt kinh đô tại động Hoa Lư (Ninh Bình) thì không thông hiếu với nước Chiêm (Chàm) mà cũng không dám đòi đất đã bị đánh hôi trong lúc bị nhà Ðường thống trị.
3.      Lợi dụng thế yếu sau khi Ðinh Tiên Hoàng Ðế băng hà (980 sau tây lịch), người Chiêm lại kéo binh thuyến tiến đánh Hoa Lư qua các cửa biển rồi tụ ở núi Non Nước trong thị xã Ninh Bình và theo sông Ðáy đến đánh Hoa Lư (kinh đô nước Ðại Cồ Việt).
Từ Thị xã Ninh Bình đến Hoa Lư có khoảng 15 Km. Nhưng lòng trời không tựa nên tiến binh đến Gián Khẩu (1/3 đoạn đường phải đi) thì gặp bão, thuyền đắm mất nhiều nên phải tự động lui binh.....Đúng là: "Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" (Lý Thuờng Kiệt).
4.      Năm 981, chuyển sang đời Tiền Lê thì vua Lê Ðại Hành (Lê Hoàn, 980-1005) sai sứ thông hiếu. Không những vua Chiêm không tiếp mà còn nhốt tù xứ giả nữa. Coi thường dân Việt!
5.      Năm sau 982, để chứng tỏ thực lực của Ðại Việt, vua Lê đem quân đi đánh nước Chiêm
Biên cương nước Chiêm lúc đó vươn lên tận đèo Ngang. Kinh đô nước Chiêm thì ở Ðồng Dương (thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay).
Lê Hoàn đánh thẳng vào Kinh Ðô và đại thắng, sau đó trả lại sự tự chủ cho dân Chiêm và rút quân về Hoa Lư....Lý do là không giữ nổi vì nước còn nghèo, dân còn ít, việc nước còn nhiều vấn đề chưa giải quyết xong; nói chung là nội chính chưa ổn định.
6.      Sau khi rút quân về thì có người quản giáp (có lẽ là vị tướng quân nhu, quân khí) là Lưu Kế Tông không đồng ý nên trốn lại và cướp ngôi vua. Ðược tin này thì Vua Lê Ðại Hành (Lê Hoàn) sai người ám sát Lưu Kế Tông rồi trao lại quyền cho dân tộc Chiêm, có lẽ sợ dân Chiêm nổi dậy báo thù. Dân Chiêm tôn một người họ Chế lên làm vua. Người này sinh quán ở Quy Nhơn nên chuyển đô về Phật Thệ (tức thành Chà Bàn)  .
7.      Năm 1044, vua Chiêm lại gây hấn; vua Lý Thái Tôn thân chinh đem quân đi đánh. Quân ta thắng trận ở sông Chợ Củi, sau đó kéo thẳng đến thành Chà Bàn (Ðồ Bàn, hay Quy-nhơn). Sau chiến thắng này thì lại lui binh mà không hề nói tới mảnh đất bị đánh hôi trong thời nhà Ðường. Biên giới nước Chiêm vẫn là đèo Ngang (ranh giới Hà Tĩnh-Quảng Bình)

Chà Bàn là tên Chiêm, Đồ Bàn là chuyển sang âm Việt. Quy Nhơn là tên Việt do vua Lê Thánh Tôn đặt vào năm 1469 trước khi hành quân để rủi-ro địch quân có vớ được truyền tin thì cũng không biết địa danh đó ở đâu cả. Còn Bình Định là Gia Long đặt vào năm 1802 để nói là đã bình định được "giặc Tây Sơn"
8.      Năm 1069 vua Lý Thánh Tôn đánh thẳng vào Chà Bàn. Vua Chiêm là Chế Củ đem gia đình bỏ chạy và bị bắt ở Phan Thiết. Chế Củ xin trả lại Quảng Bình để quân ta lui binh. Như thế là đời nhà Lý đã đòi lại được vùng đất Quảng-bình (từ đèo Ngang đến sông Bến Hải, ranh giới Quảng-bình và Quảng-trị) bằng sức mạnh quân sự.
9.      Ðến đời nhà Trần, năm Hưng Long thứ 14 (1307) Thái Thượng Hoàng Nhân Tông sang thăm giao hữu với vua Chế Mân sau khi đã liên minh đuổi được quân Mông Cổ, giành lại độc lập cho cả 2 nước đồng minh trong cơn nguy biến.
Trong khi đàm đạo, 2 bên đồng ý: Trả lại 2 châu là Quảng-trị (châu Ô) và Thừa-Thiên (châu Lý) cho nước Việt dưới danh nghĩa là của dẫn cưới công chúa Huyền Trân. Biên giới nước Chàm trở lại đèo Ải Vân như lúc nguyên thủy khi lập quốc.
10.  Khi Chế Mân băng hà, bên Ta tổ chức cướp Hoàng Hậu của vua Chiêm, vì thế nên có thêm mối thù liên miên không dứt.
Ø         Về sau, con cháu Chế Mân cứ nghĩ đến chuyện chiếm đất của nước Ðại Việt để trả mối thù truyền kiếp (mất đất đã chiếm, mất công chúa đã cướp được) mà không hề suy hơn tính thiệt để đến nỗi bị xóa tên trên bản đồ trong vùng từ năm 1471 bởi vua Lê Thánh Tôn....Lý do là chủ quan, coi khinh dân Đại Việt.
11.  Năm 1313, vua Trần Anh Tông phải đích thân chinh phạt. Chia quân làm 3 đạo tiến thẳng đến kinh đô Chà-Bàn. Vua Chiêm là Chế Chí phải đích thân ra hàng và xin chịu thần phục như trước. Vua lại kéo quân về và trả nước cho họ Chế cai trị: Từ đèo Hải Vân vào trong nam tới tận bờ biển Bình Thuận (Phan thiết). Đất Phù Nam chưa ở đưọc.
12.  Năm 1352, vua Chiêm là Chế A-Na băng hà, rể là Trà Hòa Bố Ðể  cướp ngôi. Con Chế A-Na là Chế Mỗ sang cầu cứu.
13.  Năm 1353, vua Trần Dụ Tông sai đem quân đưa Chế Mỗ về phục hồi quyền lực; nhưng bộ binh Việt tiến đến Cổ Lũy (sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi) thì phải lui binh vì thuyền lương bị quân Chiêm đánh chìm. Thừa thắng xông lên: Quân Chiêm ra đánh châu Hóa (tức tỉnh Thừa-thiên, Huế), rồi giữ luôn không trả cho nguyên chủ. Bên ta thì Trương Hán Siêu phải cực nhọc lắm mới giữ được châu Thuận (Quảng Trị).
14.  Năm 1362, tình hình nguy khốn do quân Chiêm quấy phá. Quân Chiêm ra đánh đến Lâm Bình (phía nam sông Gianh) thì thất bại nên quân Việt thừa thắng đưa Chế Mỗ lên ngôi.
15.  Năm 1367, quân Chiêm ra đánh Lâm Bình nhưng thất bại.
16.  Năm 1368, vua sai tướng Trần Thế Hưng đem quâ đi chinh phạt, nhưng tới Chiêm Đổng (Quảng Nam) thì thua to mảnh giáp không còn, quân tan không người trở về. Từ đây Chiêm Thành chuyển sang thế mạnh để uy hiếp dân Việt.
17.  Năm 1371 (avril), Chế Bồng Nga đem binh thuyền tiến đánh Thăng Long. Triều Ðình, Vua Tôi và các quan Ðại Thần đều phải trốn chạy nhục nhã. Quân Chế Bồng Nga vào Thăng Long đốt phá kinh thành rồi lui binh; nhưng không quên bắt theo một mớ thanh niên Nam và Nữ về nước phục dịch.
18.  Ðầu năm 1377 vua Duệ Tôn đem quân tiến thẳng đến Chà Bàn; không ngờ bị phục binh đánh úp thua to, vua bị bắt và bị chém bêu đầu ở ngoài chợ. Thật là nhục cho dân Việt!
19.  Năm sau 1378, Chế Bồng Nga lại đem quân chinh phạt Thăng Long. Lúc này vua tôi bỏ chạy có cờ. Quân sỹ thì cố thủ không dám ra ngoài mở cuộc tấn công. Chế Bồng Nga đánh phá Nghệ An rồi kéo thủy binh vào Thăng Long nhưng bị quân Việt chặn đánh ở khúc sông Ngu Giang (thuộc Thanh Hóa), quân Chiêm thua nên phải lui binh.
20.  Năm 1382, quân Chiêm lại tiến đánh Thanh Hóa. Quý Ly đóng quân ở núi Hàm Rồng để thủ, và Tướng Nguyễn Ða Phương đem thủy binh trấn ở cửa Thần Phù (tỉnh Ninh Bình). Lúc này binh lực quân Việt quá yếu, nên tướng Ða Phương dùng mưu để lừa địch tự ý rút lui.
21.  Năm sau 1383, quân Chiêm lại tiến đánh Thanh Hóa, đại thắng rồi kéo binh thẳng ra trừng phạt Thăng Long, Thủy Bộ đồng loạt tấn công. Quân ta thua to mảnh giáp không còn; khi quân Chiêm rút lui thì họ lại đem theo một mớ thanh niên Nam và Nữ về Ðồ Bàn để phục dịch.
22.  Năm 1389 (novembre), sau 6 năm bổ xung quân số và dưỡng binh thì quân Chiêm do Chế Bồng Nga thống lãnh, lại kéo binh ra đánh Thanh Hóa, quân ta thua to.
Thừa thắng xông lên, binh thuyền Chế Bồng Nga kéo đến uy hiếp Thăng Long. Vua Tôi và Quần Thần đều bỏ trốn để quân lính tự chống đỡ một mình! Toàn thể binh lính đều bị cấm trại và án binh bất động trong thế tử thủ trong tình thế nguy khốn.
Do Tổ Tiên Phù Hộ nên Chế Bồng Nga đã làm nhục tên hầu trai trước mặt mọi người nên bị nó thù. Ðang đêm hắn trốn trại sang bên ta và cho bên biết hết kế hoạch trận đánh hôm sau; ngoài ra còn chỉ điểm chiến thuyền chở Chế Bồng Nga và hiệu lệnh ra sao.
Ðược tin này, quân ta gom hết hỏa lực cùng tên lửa lại. Khi lâm trận thì cứ nhè thuyền Chế Bồng Nga mà nã bắn tới tấp. Rút cục Chế Bồng Nga bị chết cháy, quân Chiêm lui binh, Thăng Long thoát nạn binh đao. Vua Tôi và Quần Thần lại lục tục kéo về....
Ø         Thật là nhục nhã cho dân Việt!
Khi lui binh về thì tướng La Khải cướp ngôi họ Chế mà dân Chiêm không nói gì, họ cho đó là chuyện của bọn Triều Thần với nhau.
23.  Năm 1400, lợi dụng vua La Khải băng hà, bên ta đem 15 vạn (150.000) quân đi báo thù. Nhưng vì mất liên lạc với thuyền lương nên phải lui binh; không đánh đấm gì hết. 
24.  Năm 1402, tướng Ðỗ Mãn được cấp binh đi đánh tiếp. Thắng trận và buộc vua Chiêm là La Ba-đích đầu hàng và hiến đất Chiêm-đổng (Quảng Nam) và Cổ-lũy (Quảng Ngãi)....Biên giới nước Việt vươn xuống tận Quảng Ngãi ngày hôm nay.
25.  Sau đó nước ta bị lệ thuộc nhà Minh. Nhân cơ hội này nước Chiêm lại đánh và chiếm tới sông Bến Hải (thâu hồi tất các châu đã nộp khi trước). Biên giới nước Việt lại co lại đến sông Bến Hải (ranh giới Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay); tức là mất luôn châu Thuận (Quảng Trị) và châu Hóa (Thừa Thiên).
26.  Ðời Lê sơ (Lê Lợi), sau khi thắng quân Minh thì Ngài đòi lại đất Thuận Hóa và đặt quan Lộ Tổng Quảng và Lộ Tri Phủ để đóng chốt ngăn chặn quân Chiêm. Mấy đời vua sau cũng đi đánh nước Chiêm, nhưng chỉ để giữ vững đất Châu Hóa (Thừa-thiên) mà thôi, chứ không hề có ý định chiếm đất phía nam đèo Hải Vân.
27.  Năm 1446, quân Chiêm quấy phá nên tướng Lê Thụ và Lê Khả đem binh đi đánh, chiếm được Chiêm Ðổng (Quảng Nam) và Cổ Lũy (Quảng Ngãi) rồi thẳng đường đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn), chiếm được thành Chà Bàn. Bắt được vua Chiêm đem về Thăng Long. Vua Lê Nhân Tông (5 tuổi, mọi việc đều do Phụ Chính, tức ông ngoại quyết định cả)  lập cháu phế vương là  La Quý Lai làm vua và trả lại đất đã chiếm là Quảng Nam và Quảng Ngải, giữ giới tuyến là đèo Hải Vân như cũ. Có lẽ triều đình đang rối loạn vì tranh quyền, sợ quân Chiêm phục thù nên trả đất lại cho họ để giữ hòa khí.
Sau đó dòng dõi La Quý Lai bị lật đổ bởi Bàn La Trà Duyệt. Trà Duyệt nhường ngôi cho con là Trà Toàn. Trà Toàn bắt đầu đánh canh bạc chót là liên minh với nhà Minh bên Tàu để xóa bỏ nước Việt, một nửa thành Tàu và nửa còn lại thành Chiêm....
Vì lý do này nên Triều Thần ở Thăng Long mới giết vua và Thái Hậu rồi đem kiệu ra đón Hoàng Tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tôn) về lo việc nước (1460)....Đây là bước ngoặt tư-duy của dân Việt, đi từ Toàn Dân Giữ Nước bước sang tư-duy Đất của Chúa, Lúa của Trời
²
28.  Năm 1470 (septembre) vua Trà Toàn tiếp tục cất binh tiến đánh sau khi đã lấy được đất Thuận Hóa. Vì chủ trương chiếm đất để Chiêm hóa dân Việt, nên lần này dùng bộ binh chứ không phải thủy binh như các vua trước để đánh phá, cướp bóc rồi trở về như trước.

Lúc này thì vua Lê Thánh Tông đã huấn luyện được 26 vạn (260.000) quân tinh nhuệ, chia làm 2 cánh thủy bộ phối hợp đồng tiến để đánh thẳng vào Chà Bàn. Thủy binh cho chính Ngài thân chinh đi thẳng vào Chà Bàn mà Ngài gọi là Quy Nhơn trên bản đồ hành quân.

29.  Năm 1971, Trà Toàn say men chiến thắng, đã đánh chiếm hết Nghệ An sắp đào mả vua Lê Thánh Tổ (Lê Lợi) ở Thanh Hóa nên hậu cứ mất mà không hay. Ðến khi biết thì quá trễ, lúc này Trà Toàn sai sứ giả đi thuyền qua đảo Hải Nam để dâng sớ xin hiến nước Chiêm cho nhà Minh bên Tàu.
Mả tổ linh thiêng nên thuyền tuần duyên của ta vớ được, bèn đốt sớ, giết sứ giả và làm đắm thuyền để phi tang. Sau đó sai người phi báo ngay cho vua đang hành quân ở Quy Nhơn. Nhận được tin này thì Ngài hết sức lo sợ, một mặt sai tốc chiến, tốc thắng giết ngay Trà Toàn tại chiến trường, mặt khác đổi ý định đánh trừng phạt như xưa thành đánh để hội nhập nước Chiêm với nước Việt làm một. Chấm dứt vĩnh viễn binh đao vì thù hận.
Vì thay đổi đường lối chính trị nên Ngài cho các vùng còn lại (tổng cộng là 2/5 lãnh thổ nước Chiêm) cái quyền tự trị, và úy lạo dân Chiêm trong vùng mới chiếm. Vì thế nên đời sống người dân Chiêm không bị xáo trộn, không có cảnh bỏ nước ra đi.
Vùng hội nhập gọi là Quảng Nam (từ đèo Hải Vân đến Quy Nhơn) là một tiểu bang của nước Việt, hưởng sự hòa đồng sắc tộc và hội nhập văn hóa. Đó là người Việt gốc Chiêm
Vùng còn lại rộng bằng 2/5 diện tích nước Chiêm khi trước, thì chia làm 3 Châu hưởng quy chế Tự Trị; nhưng được gọi là nước cho bình đẳng. Ba nước này không được quyền thành lập binh đội nhưng được quyền sống theo văn hóa của mình và không phải nộp thuế, nhưng bị giám sát chặt chẽ.
w

Sau khi Trà Toàn bị thanh toán thì vùng đất chiếm được từ đèo Hải Vân đến Quy Nhơn được gọi là vùng Quảng Nam. Ngay sau khi hội nhập vào nước Đại Việt thì người dân sống trong vùng đó được quyền thi Hương để lấy bằng Tú Tài hay Cử Nhân xong trở về quản trị vùng đất của mình.
Theo luật hồi đó thì sau khi ban Giám Khảo chấm đậu (vua không có quyền can thiệp vào việc chấm thi) thì mặc nhiên được vua bổ nhiệm làm quan trong vùng nguyên quán của mình để hòa đồng sắc tộc, bảo vệ cuộc sống hài hòa và hội nhập văn hóa để song song đồng tiến.
Vùng còn lại có diện tích bằng 2/5 nước Chiêm thì chia làm 3 Châu hưởng quy chế Tự Trị. Tuy là Châu nhưng đặc cách được gọi là nước. Ðó là:
P      Từ Phú Yên vào đến hết Khánh Hòa là nước Hoa Anh.
P      Vùng Phan Rang và Phan Thiết (hay Phan Rí) là nước Chiêm Thành
P      Vùng phía tây (Komtum, Pleiku, Darlac) gọi là nước Nam Bàn
Vì muốn Hội Nhập mọi sắc dân nên vua Lê Thánh Tông ban hành bộ Luật Hồng Ðức để mọi công dân được hưởng quyền lợi như nhau và có cùng chung một trách nhiệm đối với đất nước. Vì thế nên mọi người đều an vui chấp nhận các nền văn hóa khác biệt của nhau. Coi bộ Luật Hồng Ðức thì rõ.

Xung khắc sắc tộc
Rất tiếc là về sau, vì cần tạo quyền lực cho dòng họ mình để đối đầu với họ Trịnh, nên chúa Nguyễn Hiếu Minh đã bức bách dân nước Hoa Anh và nước Chiêm Thành với chánh sách ÐỒNG HÓA nên họ phải bỏ nước vào tỵ nạn ở nước Nam Bàn (tức vùng Tây Nguyên ngày hôm nay- có mỏ Bauxite). Do đó mới có xung khắc sắc tộc
Ngày hôm nay Việt Cộng cũng muốn Ðồng Hóa Văn Hóa Việt thành Văn Hóa ngoại lai: Mác, Lê, Mao nên đã bức bách mọi sắc dân mà trong đó sắc dân ở Tây Nguyên lãnh phẩn thiệt thòi nhất.
Nếu vùng Tây Nguyên này bị giặc Tàu khống chế thì toàn thể nước Việt sẽ bị Tàu hóa rồi đi đến tiêu vong. Vì vậy phải tạo cuộc sống hài hòa bằng cách Hòa Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa thì mới có đoàn kết dân tộc được; còn chia rẽ là chết không kịp ngáp, dù là sắc dân nào thì cũng thế mà thôi.

Khai hoang đất Phù Nam
Phù Nam là đất bồi ở phương nam. Tức đồng bằng sông Cửu Long, phần đất miền Đông thuộc nước Chiêm, phần đất miền Tây thuộc Chân Lạp. Nay ta gọi là thềm lục địa.
Các hoang đảo như Phú Quốc, Côn Sơn dân chài lưới nào định cư ở đó thì đảo đó của người nước đó. Các đảo này cũng cần phải khai hoang giết rắn rết, thuồng luồng, ba ba và thú dữ thì mới thành đất lành chim đậu được. Do đó đảo Phú Quốc và đảo Côn Sơn thuộc người Việt.
Các đảo san hô không người cư ngụ thường xuyên thì phải chiếu theo công ước quốc tế về thềm lục địa, hải phận kinh tế......
Đó là nguyên lý căn bản của biên giới Quốc Gia nên người Cambodia không thể nhận xít miền nam nước Việt (cochinchine) là đất của họ được. Ngày hôm nay đất Phù Nam đang được bồi tiếp; sau này đảo Phú Quốc lọt thỏm vào thềm lục địa đất Cambodia, rồi biến thành lục địa của họ.....lúc đó thì tỉnh Phú Quốc thuộc nước Việt hay nước Chân Lạp? 

Vết dàu loang:
Thoạt đầu chúa Nguyễn Hiếu Minh thành lập:
1.      Phủ Phú Yên, Phủ Bình Khang và Phủ Diên Khánh thuộc vùng tự trị Hoa Anh (Phú Yên và Khánh Hòa) bị Chúa Nguyễn Hiếu Minh dùng cường quyền áp bức, biến vùng tự trị thành vùng bị đồng hóa. Những người không theo thì trốn vào vùng Nam Bàn tỵ nạn. Nam Bàn là vùng Kontum, Pleiku, Buôn Mê Thuột. Việc sát nhập này không mấy khó khăn, nhưng gây nhiều bất hòa mà hậu quả còn lưu tới ngày hôm nay.
2.      Sau khi yên vị thì lại gậm thêm Phủ Bình Thuận thuộc vùng tự trị Chiêm Thành (Phan Rang và Phan Thiết). Những người không theo thì trốn vào vùng Nam Bàn tỵ nạn.
3.      Sau khi ổn định đuợc 2 vùng tư trị kể trên thì Chúa Nguyễn lại đi một bước xa hơn là bắt người dân Chiêm ở đó làm nô lệ đi khai phá vùng đất bồi phía nam (Phù Nam) để lập thêm các phủ mới theo diện tích đất bồi lần lượt như sau:

Phủ Gia Định (Đồng Nai)
Dưới thời chúa Nguyễn Hiếu Minh, dân Chiêm thuộc vùng Hoa Anh và Chiêm Thành bị cưỡng bách đi làm lao nô để khai phá đất bồi ở Đồng Nai lập nên phủ Gia Định. Tổng hành dinh là đất Đồng Nai.
Công việc rất nặng nhọc: Giết hải âu, rắn rết, cá sấu, ba ba.... và thú dữ, chặt cây làm nhà, vượt đất làm nền, canh tác đất đai và những việc nặng nhọc khác. Tuy không phải là rừng thiêng nước độc nhưng muỗi cắn cũng đủ chết, nước uống không những thiếu mà còn độc địa do đất phù sa gây ra....Ngoài ra còn phải đuổi người Côn-man (tức dân chài lưới sừng sỏ) ra khỏi những nơi trú ẩn khi trời bão tố gây đắm thuyền. Khai phá xong thì trao lại cho dân Việt quản lý (đúng là bóc lột!)

Châu Định Viễn (Vĩnh Long)
Sau Phủ Gia Định lại khai thêm Châu Định-viễn (tức Vĩnh Long), công việc cũng cực nhọc như vậy là do dân Chiêm làm hết. Khi hoàn thành thì dân Việt lại đến tiếp thu. Đến đây thì sức cùng lực kiệt chúa Nguyễn không thể bót lột được nữa.

Trấn Hà-tiên
(Trấn chứ không phải Châu hay Phủ)
Lúc này (1628 sau tây lịch) bên nước Tàu nhà Thanh diệt nhà Minh.
Binh đội Mạc Cửu không chịu đầu hàng nên kéo binh đoàn đến hạ trại ở khu đất Hà Tiên. Lúc đó Hà Tiên là đất vô chủ nên binh đoàn Mạc Cửu yên ổn làm ăn.
Sau khi khai hoang, diệt hải âu, rắn rết, cá sấu, ba ba... và thú dữ; biến vùng sình lầy thành nơi đô hội, lập cảng làm nơi buôn bán để thuyền bè qua lại tá túc, trao đổi hàng hóa và du hý bằng các sòng bạc cùng bọn làu xanh.
Làm ăn đang phát triển thì bọn lính ở Phnom Pênh qua đánh phá. Bọn Mạc Cửu chống đỡ giỏi nên tuy đánh lui được người Chân Lạp nhưng thuyền bè qua lại thưa dần vì không có an ninh. Do đó kinh tế tụt dốc không thắng.
Để phục hồi lại an bình thì Mạc Cửu đến điều đình với chúa Nguyễn là biếu vùng đô hội Hà Tiên và chịu nộp hoa lợi hàng tháng; với điều kiện quân nhà Nguyễn phải bảo vệ an ninh để các thuơng thuyền lui tới.
Hai bên đồng thuận nên quân Chân Lạp không dám sang cướp phá nữa. Nhưng chính Chúa Nguyễn cũng thiếu người quản trị nên phong ngay cho Mạc Cửu làm Tổng Binh cai quản vùng Hà Tiên. Vì đây là địa đầu giới tuyến nên thay vì đặt là Phủ hay Châu thì gọi ngay là TRẤN; do đó mới có danh xưng là Trấn Hà Tiên
Thường thường thì chữ Trấn dùng để chỉ một vùng có binh đao cần phải chặn (trấn) lại. Còn chữ Phủ hay Châu là một vùng đất an bình. Vì vậy nên các chúa đã đặt là: Phủ Gia Định, Châu Định Viễn, nhưng Trấn Hà Tiên chứ không phải Châu Hà Tiên. Châu to hơn Phủ. Phủ ở thời đó khác với Phủ và Huyện ngày hôm nay.
w
Tri tân:
Kể từ ngày lập nước Văn Lang (2.879BC) cho đến nay thì nước Việt ở vào thế bị bức tử rồi vùng lên thành công sát nhập nước người vào nước mình chỉ có 2 lần mà thôi. Các lần khác thua liểng xiểng nên phải chịu thân phận nô lệ người.

Hai lần đó là: Thời Việt Vương Câu Tiễn (6000BC) sát nhập nước Ngô vào nước Văn Lang và thời vua Lê Thánh Tôn (1471 sau tây lịch) sát nhập nước Chiêm vào nước Đại Việt.
Đặc biệt là cả 2 lần này đều chấm dứt chiến tranh bất tận vì hận thù của Triều Đình nên dân 3 bên chung sống hài hòa và hưởng thụ thái bình hưng thịnh trong một thời gian dài:
·      Thời Việt Vương Câu Tiễn từ 600BC tới 300BC, được 300 năm không chinh chiến. Sau đó Triệu Đà (người Việt gốc Ngô) tiếp nối cho tới 111BC; tổng cộng gần 500 năm.
·      Thời vua Lê Thánh Tôn hiệu Hồng Đức (1469) đến thời chúa Nguyễn Phúc Tần, được non 200 năm thái bình thịnh trị.
Từ đây chúa Nguyễn bắt dân Chiêm làm nô lệ để khai hoang đất bồi ở miền nam (tức đồng bằng sôn Cửu Long). Đàn áp dã man những người Chiêm không tuân lệnh, nên gây oán thù giữa 2 sắc tộc chẳng nhiều thì ít cho tới tận ngày hôm nay.

Sở dĩ có cuộc sống hài hòa giữa 2 dân tộc là vì áp dụng triệt để chánh sách: Hòa Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa. Không những riêng 2 biến cố quan trọng mà còn được áp dụng dưới thời Hùng Vương, dưới thời Triệu Đà và dưới thời Tây Sơn nữa.

Coi cung cách đối xử của Hoàng Đế Quang Trung với quần thần nhà Lê và nhà Trịnh thì rõ. Tuy đã diệt được họ Trịnh nhưng Ngài dành cho Chúa Trịnh Khải tang lễ theo nghi thức Đế Vương, giống như Việt Vương Câu Tiễn dành tang lễ Đế Vương cho Ngô Phù Sai........
·      Ấy thế mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm không những không được hưởng nghi thức tang lễ này mà họ còn không cho gia quyến được tổ chức đám ma bình thường nữa. Chúng ta nghĩ gì về biến cố 01/11/1963 này?

Câu hỏi được đặt ra là:
Vậy thì ngày hôm nay chúng ta phải làm gì để xóa bỏ hiềm khích giữa các sắc tộc do Việt Cộng cố tình gây ra với chánh sách Ngu Dân đễ dễ chia, dễ trị?
w

Phần 2: Tham Luận dành cho Giảng Viên
Khoảng 6.000BC thì nước biển Đông cao hơn ngày hôm nay là 10,3m. Lúc đó lục địa Trung Hoa ngập trong biển. Mực nước lên đến chân núi Hy Mã Lạp Sơn (Tây Tạng), chân núi Trường Sơn (Việt Nam). Đồng bằng sông Hồng (Bắc Việt) và đồng bằng sông Cửu Long chưa có.
Nhân số trên toàn thế giới chưa đầy 2 triệu người, con người sống còn rải rác và chưa có nhu cầu cần tiếng nói để truyền đạt tư tưởng cho nhau.
Chưa có tiếng nói, chưa có ý niệm dân tộc thì làm gì có Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn. Các vị này là do Hán Cao Tổ (Lưu Bang) sai người viết ra thần thoại để thiên hạ phục mình. Đó là hành đông lưu manh chánh trị. Giống Việt Cộng ngày hôm nay tưởng tượng ra các anh hùng như Thiếu nhi Kim Đồng để xúi người ngu chết cho mình.

Khoảng 3.500BC thì bàu không khí lạnh trở lại. Vì nước đóng băng ở đầu trục quay nên mực nước biển rút xuống và giữ nguyên ở mực nước ngày hôm nay.
Trước thời kỳ Đại Hồng Thủy thì dân nông nghiệp sống ven biển từ Mã Lai lên đến Phi Luật Tân di lên núi Hy Mã Lạp Sơn, nay thì họ lần theo 3 triền sông lớn để trở về quê cũ. Đó là:
  1. Hoàng Hà tục gọi là con cháu Đế Nghi cho dễ nhớ vì chưa có chữ viết.
  2. Sông Dương Tử và Hồng Hà được gọi là con cháu Lộc Tục gồm 3 nước sau này là Ngô, Sở và Việt
  3. Sông Cửu Long được gọi là dân An Bình nên chưa cần lập quốc. Đó là Chiêm và Khmer, họ di từ chân núi Trường Sơn ra biển.
Tất cả đều là sắc dân nông nghiệp. Lúc này thì sắc dân Du-mục ở Trung Đông chưa qua được vì rừng núi ngăn cách.

Ngày lập quốc:
Vì đã tự tạo ra thực phẩm để bảo đảm cuộc sống nên nhân số bắt đầu tăng trưởng. Đến năm 2.879BC thì:
P     Người Ngô lập binh đội để đi xâm lăng với học thuyết Thiên Tử. Cương vực được bao bọc bởi sông Dương Tử và sông Tây Giang. Vì thuần chủng nên được gọi là nước Ngô.
P     Người Sở ở vùng Tứ Xuyên lập binh đội để Tự Vệ với học thuyết Vô Vi. Vì thuần chủng nên ta gọi là nước Sở.
P     Người Việt phải lập Liên Bang Việt và lấy quốc hiệu là Văn Lang theo thể chế Dân Chủ Phân Quyền: Lệnh vua còn thua lệ làng. Cương vực từ sông Tây Giang đến đèo Hải vân (khi xưa là Ải Vân, người Pháp dịch là Col de nuage), nên gọi là Việt hay Bách Việt.

Người Việt lập quốc: 2.879BC
Lúc đó người Việt sống theo từng vùng được gọi là Bộ Lạc (một vùng an lạc, vì muốn hạ nhục nên thực dân Pháp gọi là TRIBU = Tù mới đúng).
Vùng ở tuyến đầu là Lạc Việt; tức Quảng Đông ngày hôm nay. Sau đó là đảo Hải Nam với chuyện quả dưa hấu của An Tiêm. Rồi đến Âu Việt là Quảng Tây và U Việt là Vân Nam.......chạy dài xuống tận đèo Hải vân là đất của Việt Thường với chiến khu Lâm Ấp bất khả xâm phạm (tức miền bắc trung phần ngày hôm nay: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên). Lúc đó Liên Bang Việt có mời nhưng người Chiêm từ chối việc lập nước để hỗ trợ tiền tuyến ở mãi tận Quảng Đông, không liên hệ chi đến mình.
Chánh sách của Liên Bang Việt đã được 2 ông Phạm Lãi và Văn Chủng gói ghém trong chuyện 100 trứng, 100 con vào thời điểm 600BC. Nhiệm vụ của vua Hùng là: Hòa Đồng dân Tộc và Hội Nhập Văn Hóa để biến Liên Bang Việt thành Chủng Tộc Việt với 2 đức tính căn bản là: Tự Trọng (ký thác trong danh từ Văn Lang) và Cầu Tiến (ký thác trong danh từ Việt). Phải mất 2.600 năm các thế hệ tiền bối mới xây dựng được chủng tộc Việt. Vì muốn ghi ơn tiền nhân để con cháu biết kết đoàn giữ nước nên năm thứ 7 dưới triều Thục An Dương Vương (250BC) người xưa mới lập đền Hùng và tổ chức ngày Quốc Tổ với nghi thức Tế Lễ trịnh trọng và hội thảo trong 3 ngày để hậu duệ lo việc giữ nước: Đừng phụ ơn người xưa. Trong thời nô lệ thì người dân Việt không được quyền biết đến công lao người xưa nên ngày Quốc Tổ bị cấm. Vì muốn bảo vệ truyền thống mà không một dân tộc nào có ngày Quốc Tổ, nên dân Việt đã uyển chuyển gọi đó là ngày Giỗ Tổ và bỏ phần hội thảo đi. Nay chúng ta phải phục hồi ngày Quốc Tổ để con dân đất Việt còn biết đến lịch sử thăng trầm của đất nước.

Người Chiêm lập quốc: 40 sau tây lịch
Năm 40 sau tây lịch, nhà Đông Hán sai Mã Viện quyết xâm lăng nước Đại Việt. Đại ở đây là nhân cách tự trọng và tinh thần cầu tiến chứ không phải đại về đất đai, về tài nguyên.
Nên nhớ dưới thời nhà Tây Hán (111BC) dân ta độc lập mãi đến trận nhà Trưng nên quân Hai Bà mới có voi trận, ngựa chiến, tuyển binh hàng vạn như không. Voi, Ngựa, quân sỹ phải tập luyện cả năm mới có, vũ khí và quân lương phải sản xuất rồi để sẵn trong kho; nô lệ thì làm gì làm được chuyện này. Năm 111BC nhà Tây Hán có xua quân sang nước Nam Việt xâm lăng thật, nhưng vừa chiếm xong vùng duyên hải thì thủ đô là Tràng An bị Mãng Vương cướp quyền nên phải kéo quân về tái chiếm trong vòng 136 năm mới xong (từ 111BC đến 25AD). Vì thế nên thống Chế Lý Thường Kiệt mới nói : Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư...Có nghĩa là kẻ nào xâm phạm nước của ta thì kẻ đó sẽ thảm bại (do trời đánh, vì nước ta có thánh nhân bảo vệ)...Như vậy là Bắc thuộc lần thứ nhất không có, sử Trần Trọng Kim viết sai.
Nhắm thấy khó tấn công trực diện nên Mã Viện tính đổ quân tử đảo Hải Nam vào Đồ Bàn (tức Quy Nhơn dưới thời vua Lê Thánh Tôn, hiệu Hồng Đức năm thứ nhì 1471) xây dựng hậu tuyến rồi mới 2 mặt giáp công, đánh tan chiến khu Lâm Ấp.
Vì không muốn nô lệ để quân Hán tự do đi lại như đất không chủ nên dân Chiêm mới lập quốc để tự vệ. Do đó Mã Viện bỏ chuyện đánh tập hậu.
Lập quốc thì phải có Binh Đội, có Hiến Pháp và có Luật Nước. Do đó nước Chiêm mỗi ngày mỗi hùng mạnh. Từ chỗ hùng mạnh mới trở thành Đế Quốc xâm lược.
Vào thế kỷ thứ 5, đồng bằng sông Cửu Long còn chìm trong biển. Nước biển lên tới tận Bình Thuận (Phan Thiết), bên phía tây tiến tới biển hồ Tonlé Sap; Phnom Penh là bờ biển.
Hà Tiên chưa có; nhưng Côn Sơn và Phú Quốc là những hoang đảo đầy rắn rết và thú dữ phải khai quang mới ở được. Về sau, người đến khai hoang đầu tiên là dân Việt làm nghề chài lưới, đi về đất liền thì quá xa nên định cư ở đó luôn nên Côn Sơn và Phú Quốc đều có người Việt làm chúa đảo. Dân Khmer ít đi biển nên không tới những hòn đảo này vì quá xa đất liền.
thờì điểm này thì dân số nước Chiêm còn ít, và dân Khmer cũng chưa quá 1 triệu người sống rải rác ở phía bắc nước Khmer ngày hôm nay; tức vùng  STUNG TRENG và KRATIE. Vì bị dân Chiêm tấn công (khoảng 450AD) chiếm đất bắt người nên dân Khmer lập quốc để kháng cự. Lúc đó dân Việt đặt cho họ cái tên là nước Chân Lạp. Điểm này chứng tỏ dân Chiêm hiếu chiến và hiếu thắng.
Vào thế kỷ thứ 8, nuớc ta bị nhà Đường thống trị. Quân Lâm Ấp (Bộ Lạc Việt Thường) kéo ra cứu nguy dân Giao Chỉ, và quân Nam Chiếu (thuộc U Việt) kéo xuống giải vây cho bộ lạc ở vùng Giao Chỉ mà sử Tàu nói rằng bị quân Nam Chiếu và quân Lâm Ấp phá rối an ninh nên ban đêm phải rút vô thành. Tức ban đêm kháng chiến làm chủ, ban ngày quân xâm lược làm chủ. 
Vì tiểu bang Việt Thường phải tham chiến nên kinh tế hao hụt, nước ít phòng bị. Lợi dụng nhược điểm này quân Chiêm tiến đánh Lâm Ấp và sát nhập vùng đất đó vào nước Chiêm (khoảng 800AD). Thế là tiểu bang Việt Thường mất luôn chiến khu Lâm Ấp từ đèo Hải Vân lên đến tận Quảng Bình ngày hôm nay. Về sau phải hì hục lắm mới lấy lại được.

Từ lúc này trở đi quân Đại Việt sợ quân Chiêm như sợ cọp. Đã mấy lần dân Việt suýt nữa thì mất với dân Chiêm, nếu không có tổ tiên phù hộ (Quốc Sư Nguyễn Trãi có nói điểm này trong đoạn kết của bài Bình Ngô Đại cáo: ..."Được như thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng che chở, giúp-đỡ cho nước ta vậy.".....Và chúng ta cũng được nghe chuyện rùa thần (Lạc Long, tức Kim Quy) về phù hộ nhiều lần.
Sau đây là những năm dân Việt bị dân Chiêm chinh phạt hầu như thường xuyên...đến độ về sau Huyền Trân Công Chúa phải chịu hiến thân để chuộc đất Thuận Hóa về cho xã tắc. Trong khi đó dân Việt không đủ sức đánh thẳng vào đất Chiêm.
Đừng nghĩ rằng người Chiêm hiếu hòa, an phận yếu hèn.....Điều này chỉ đúng với người dân Chân Lạp thôi; nhưng không đúng với người Chiêm. Chính danh từ Chiêm đã nói lên tinh thần tự tôn như danh từ Trung Hoa vậy. Chữ Chiêm có nghĩa là mọi người phải tôn kính họ.
Người Khmer ngày hôm nay hung dữ có thể vì họ bị nhiều bức hại của các nước lân bang như Chiêm, Thái, Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn không đại diện cho dân Việt, đừng nhầm Chúa Nguyễn với triều đình nhà Nguyễn Gia Long. Dưới thời chúa Nguyễn thì đại bộ phận dân tộc ở miền bắc dưới nhà Lê và Chúa Trịnh. Chúa Trịnh được vua Lê phong tước, còn chúa Nguyễn thì chẳng có ai phong cho cả.
***Phần này sẽ nói ở dưới, trong mục đất bồi phương nam (tức đất Phù Nam).
w

Lịch sử nước Việt và nước Chiêm
Rằng: Binh đao là việc nên tránh. Ðánh thì dễ nhưng ngưng thì khó.
Hơn nữa binh đao là việc chẳng sắc dân nào muốn cả; vì chính người dân chịu hậu quả. Càng tiểu nhược thì lại càng không muốn. Thắng thì chỉ được những lời phỉnh gạt mà thua thì cháy túi, kéo cày trả nợ. Còn triều thần, vua chúa là những người có khả năng gây chiến thì lại chẳng có gì để mất ngoài cái đầu của họ.

Yếu tố thành lập một nước: Lập quốc thì phải có Văn Hiến để quy định quyền hạn và bổn phận của mọi thành viên trong nước đó.
Mục đích của Văn Hiến là bảo vệ Văn Hóa (tức nếp sống của dân tộc). Nước độc lập thì có văn hiến độc lập do dân phúc quyết (quyết định sau chót); còn nước nô lệ thì do triều đình tự biên tự diễn để bảo đảm uy quyền của mình (giai cấp thống trị)
Muốn bảo vệ Văn Hiến thì phải có Luật Pháp và cơ quan có đủ chức năng để ổn định xã hội được gọi là Chánh Phủ. Chữ Phủ ngày xưa không phải là một huyện đông dân cư như thời Pháp thuộc. Ngày xưa thì nhiều Phủ hợp thành một nước, nên chữ Chánh Phủ có nghĩa là Nguyên Thủ Quốc Gia. Lúc ban đầu chỉ có 3 bộ là Binh-bị, Kinh-tế và Văn-hóa; về sau tăng lên thành 4 nên gọi là Tứ Trụ Triều Đình. Ngày hôm nay cuộc sống phức tạp nên có rất nhiều Bộ, mỗi Bộ có ông Bộ Trưởng; và các Bộ Trưởng đặt dưới sự chỉ đạo của ông Thủ Tướng Chánh Phủ. Mọi chi phí cho công việc hành chánh thì đều bổ trên đầu người dân dưới danh từ "THUẾ" bằng nhiều hình thức khác nhau. Tùy theo nhu cầu của Triều Ðình mà họ đặt tên cho từng loại thuế một.
Tóm lại: Văn-minh (sáng chế ra đồ dùng để cải thiện cuộc sống) đẻ ra Văn-hóa (nếp sống của một cộng đồng, vì văn-minh thay đổi nếp sống). Văn-hóa cần Văn-hiến để bảo vệ nếp sống; và sau cùng Văn-hiến cần có Pháp-luật (quốc hội lập pháp) và người thi hành (Chánh Phủ).
w
Nhu cầu lập quốc:
Lập quốc thì phải có Triều Ðình (nay gọi là chánh phủ) và Binh Ðội để bảo vệ an ninh lãnh thổ, nay gọi là Quân Ðội.
§    Do đó chỉ có 2 yếu tố sau đây thúc đẩy thành lập Binh Ðội để xâm lăng, hoặc để Tự Vệ.
§    Học Thuyết: Muốn thành công thì bên xâm lăng cũng như bên tự vệ đều phải đẻ ra học thuyết để lấy chánh nghĩa về phe mình thì mới bắt lính được, mới hô hào được dân ủng hộ.
Ðó là quy luật vận hành của xã hội loài người mà ta thường gọi là Triết Lý của sự sống còn. Triết học có nghĩa là học về quy luật biến đổi vạn vật để còn đẻ ra học thuyết cần cho việc ổn định xã hội theo ý mình muốn
Quy luật thống trị:
Ðừng đồng hóa tâm tình người dân với hành động của Triều Ðình.
Nước độc lập thì triều đình làm theo ý dân, còn nước nô lệ thì dân làm theo ý của triều thần.  Họ núp dưới mọi hình thức để bóc lột người dân mà kế sách tốt nhất là chia để trị như:
Ø       Gây xung đột Tôn Giáo hay xung đột Sắc Tộc là điều dễ thực hiện nhất.
Ø       Áp dụng chánh sách ngu dân.
Ðó là điều mọi người dân trong một nước phải sáng suốt để phòng chống lại âm mưu chia rẽ. Vì khi đất nước đã rơi vào tay bọn thống trị, tức con buôn chánh trị thì con vua, cháu chúa cũng đi tù mút chỉ. Ðiển hình là con cháu Gia Long hay Thái Tử Cù Huy Hà Vũ ngày hôm nay.
Ø         Ðây là những tấm gương để mọi người Việt thấy:
·          Chia rẽ thì chết, đoàn kết thì sống.

Hãy cùng nhau xây dựng cuộc sống hài hòa để thăng tiến cùng nhân loại trong thời đại điện tử và phi thuyền ngày hôm nay.
n

CƯƠNG  VỰC  QUỐC  GIA
Biên giới thiên nhiên: Ở thời điểm lập quốc (2.879BC), di chuyển khó khăn, dân số thưa thớt nên biên giới thiên nhiên là sông sâu và rộng, rừng rậm âm u và đèo núi hiểm trở; nhất là vùng núi thắt lại được gọi là Ải.
Ø    Ải là chốt đóng quân để ngăn chặn sự chuyển quân của giặc thù.

Nước Văn Lang được thành lập từ Liên Bang Việt gồm 15 tiểu bang vào năm 2879BC để chống quân Ngô. Cương vực từ sông Tây Giang chảy ra Hong Kong đến tận đèo Hải Vân ngày hôm nay. Phía Tây đến lưu vực sông Cửu Long (Mékong)

Liên Bang Việt được lập vào năm 2.879BC, lúc đó có mời dân Chàm vào Liên Bang thì họ từ chối. Lý do: Họ không muốn bóc lột sức dân để chi phí cho tiền đồn là Tiểu Bang Lạc Việt (Quảng Ðông) và Tiểu Bang Âu Việt (Quảng Tây).
Nhiệm vụ vua Hùng là biến Liên Bang Việt thành chủng tộc Việt thuần nhất. Tức là làm sao để hòa đồng sắc tộc và hội nhập văn hóa để có cuộc sống hài hòa và thăng tiến cùng văn minh khoa học.
Ø      Mục tiêu của con người phải đạt tới là Tự Trọng (Văn Lang) và Cầu Tiến (Việt)
Lúc đầu nước Văn Lang gồm 15 sắc tộc; trong mỗi sắc tộc lại có nhiều sắc dân nên ngày hôm nay có trên 56 sắc dân họp thành nước Việt Nam.
Biên giới phía Nam của nước Văn Lang là vùng đất Việt Thường từ Thanh Hóa vào đến tận đèo Hải Vân (Thanh-Hóa, Nghệ-An, Hà-Tĩnh, Quảng-Bình, Quảng-Trị và Thừa Thiên). Từ Hà-Tĩnh vào đến đèo Hải Vân (khi xưa gọi là Ải Vân) là chiến khu Lâm-Âp (ấp chiến lược trong rừng) bất khả xâm phạm.
Sông Gianh là khúc sông lịch sử thuộc trấn (tỉnh) Quảng Bình (Thị Trấn là Ðồng Hới); không những giữa thời Trịnh Nguyễn phân tranh mà còn là lịch sử dưới thời nhà Ðường bị quân Chiêm tấn chiếm vào cuối thế kỷ thứ 8 nữa. Sự tấn chiếm này là do lòng tham của Triều Ðình Chiêm: Ðánh hôi, cướp đất. Chưa chắc là dân Chiêm đã muốn xâm lăng dân Việt.

Người Chiêm lập quốc vào năm 40 sau thiên chúa để chống lại sự đổ bộ của Mã Viện vào Quy Nhơn rồi đánh thốc lên chiến khu Lâm Ấp. Nếu nước Ðại Việt mất thì dân Chiêm cũng nguy nên họ phải lập quốc. Vậy thì chiến khu Lâm Ấp cũng là chiến lũy bảo vệ an bình cả cho dân Chiêm nữa. Cương vực nước Chiêm lúc ban dầu là: Từ đèo Hải Vân (khi trước gọi là Ải Vân, ải là vùng đất hẹp, yết hầu khó đi qua, vân là mây; tức chỗ này luôn luôn có sương mù) cho đến Bình Thuận (Phan Thiết); lúc đó thì Đồng Nai chưa có, Sông Bé và Gia Định cũng không vì đất đang bồi còn chìm dưới biển. Phan Thiết lúc đó là bờ biển.
Cương vực phía tây là Kontum, Gia Lai (Pleiku), Đắc Lắc (Buôn Mê Thuột) và Lâm Đồng (Đà Lạt); bên kia là đất của người Chân Lạp (tức Khmer ngày hôm nay).
Sau khi lập quốc thì người Chiêm tăng cường quân lực để phòng thủ. Sau 400 năm lập quốc trong an bình, không bị xâm lăng nên Triều Ðình Chiêm nảy sinh ý định bành trướng đất đai. Đánh phía bắc thì gặp chiến khu Lâm Ấp không phá được. Đánh phía nam là biển nên bắt buộc phải đánh phía tây là đất chưa có chủ để chiếm vùng Komponcham bắt người cướp của và lấn đất giành dân. Ở thời điểm này thì người Khmer có danh xưng là người Chân Lạp.
Người Chân Lạp lập quốc khoảng năm 450 để tự vệ chống quân Chiêm, trung tâm chỉ huy đặt ở Bát-Xắc (phía bắc nước Khmer ngày hôm nay). Ðịa bàn hoạt động nằm trong vùng Kông Pông Chàm. Sau đó vì bất đồng chánh trị nên họ chia làm Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp. Về sau, vào đầu thế kỷ thứ 9 thì họ lại kết hợp làm một và đặt thủ đô ở Angkor.
Sau đó các hoàng thân lại tranh quyền tứ tung; phe thì nhờ nước Xiêm-La, (Thái Lan) phe thì nhờ chúa Nguyễn nên đất nước suy vong, dân tình nghèo khổ. Phải đợi đến người Pháp (1863) qua thì họ mới có một chánh phủ dể thở hơn. Sau năm 1975 thì họ lại rơi vào tình cảnh diệt chủng bởi đám Khmer đỏ chỉ huy bởi Pol Pot và Khieu Samphan.
Nên nhớ là chúa Nguyễn tự phong cho mình cái chức Chúa. Trong thực tế thì chúa Nguyễn không đại diện cho dân Việt. Ở thời đó, đại bộ phận dân Việt sống ở miền Bắc dưới triều Nhà Lê. Họ Trịnh được vua Lê phong cho chức Chúa đàng hoàng; thay mình để quản trị đất nước...Vì thế nên công việc làm của Chúa Nguyễn là công việc cá nhân chứ dân tộc không ủy thác bất cứ việc gì cả.
Dân tộc Việt bị tiêu hao tiềm lực là do chiến Lũy Đồng Hới, một sáng tác kỳ diệu của ông Đào Duy Từ để làm cho đất nước chia đôi trong 200 năm với 10 trận chiến huynh đệ tương tàn khủng khiếp; đã cướp đi 10 triệu thanh niên nam nữ, thành phần nồng cốt của dân tộc....Từ đó đến nay dân Việt lún sâu trong hận thù và chậm tiến để đi dần đến tiêu vong..... nếu thế hệ chúng ta còn thờ ơ với vận mạng của đất nước.
Trong thời kỳ nước ta nô lệ nhà Ðường (618-907), quân Nam Chiếu ở U Việt (Vân Nam) kéo xuống giải vây; quân Lâm Ấp (Việt Thường) tiến lên phụ giúp cứu nguy vùng tạm chiếm. Quân sỹ nhà Ðường phải về doanh trại khi trời tối. Như vậy là vùng duyên hải ở trong tình trạng sôi đậu: Ban ngày thì quân nhà Ðường kiểm soát, ban đêm thì du kích Việt làm chủ. Vùng Vân Nam có danh xưng từ thời Triệu Ðà (183BC), vì ở đó luôn luôn có mây che nên gọi là vùng u-tối. U Việt có nghĩa là cố gắng vươn lên để thoát khỏi cảnh mây mù che quanh năm.
Ø         Danh từ U Việt có từ ngày lập quốc 2.879BC, danh từ Vân Nam có từ ngày Triệu Việt Vương đăng quang (207BC)

Lợi dụng sự bỏ ngỏ của dân Việt Thường nên vào khoảng 800 sau tây lịch, quân Chiêm đánh chiếm vùng phía Nam của chiến khu là: Thừa Thiên (châu Lý), Quảng Trị (châu Ô) và tỉnh Quảng Bình gồm 3 châu: Ðịa-Lý, Ma-Linh và Bố-Chánh. Tên trong ngoặc là danh từ của người Chiêm đặt cho vùng đất chiếm được của Việt Thường.  Bố Chánh nằm phía nam tỉnh Quảng-Bình. Ma Linh nằm trong lòng tỉnh Quảng-Bình và Ðịa Lý nằm ở phía bắc Quảng-Bình. Ðiểm đặc biệt là dân Việt không kháng cự hay lên tiếng đòi phần đất bị mất này cho mãi đến tận ngày công Chúa Huyền Trân cứu nước hy sinh mới chuộc về được.
Ø     Điểm này chứng tỏ dân Việt bị lép vế dưới sức mạnh của dân Chiêm. Sợ Chiêm hơn sợ cọp
w

Chiêm và Việt: Ai xâm lăng ai?

Cuối đời nhà Ðường, triều đình yếu kém nên các nơi (bên Tàu cũng như bên Ta) đều có những  khu kháng chiến để bảo vệ cuộc sống của mình. Kẻ thống trị gọi là nội loạn, còn người bị trị thì nói là giành độc lập. Sử gia Tàu gọi đó là thời đại Ngũ Quý, vì có 5 thế lực độc lập ở phía bắc sông Dương Tử cũng như ở phía nam sông này.
Bên kia sông Dương Tử có nhà Lương (LIAO ở phía bắc sông Hoàng Hà tới biên giới Mông Cổ và Mãn Thanh), nhà Hàn Chu (XIXIA ở phía bắc thượng nguồn sông Hoàng Hà), nhà Tống (ở hạ lưu sông Dương Tử), phía tây thì có OUÏGOURS HUANG TOU (ở vùng Tứ Xuyên, tức nước Sở có 4 con sông lớn xuyên qua), phía tây còn có vương quốc Thục  (royaume TUBO). Vậy thì sử Trần Trọng Kim nói Ta lệ thuộc nhà Lương là sai (phịa!)
Phía nam sông Dương Tử (chảy ra Thượng Hải) tới phía bắc sông Tây Giang (chảy ra Hong Kong) cũng có 5 thế lực độc lập và tìm cách thanh toán nhau. Ðó là: Sở (vùng Tứ Xuyên), Ngô (vùng Bách Việt, tức Hồ Nam), Ngô-Việt (vùng Chiết Giang), Mân Việt ( vùng Phúc Kiến) và Nam Hán (vùng Quảng Ðông).
Phần đất phía dưới Quảng Ðông là nước Ðại Việt (tức thời Ðinh Tiên Hoàng Ðế) thì có 12 vùng kháng chiến chống nhà Ðường, mà người Tàu gọi là Xứ Quân và nói rằng ông Ðinh Bộ Lĩnh (Ðinh Tiên Hoàng) đẹp loạn xứ quân. Ðiều này phải xét lại: Ông Dương Diên Nghệ là 1 xứ quân, ông Ðinh Bộ Lĩnh là 1 xứ quân.
Kiểu Công Tiễn giết Dương Diên Nghệ rồi mời quân Nam Hán sang giúp sức. Ông Ngô Quyền giết Kiểu Công Tiễn (938) và đánh tan quân Nam Hán nên gọi là Ngô Vương; nhưng thực sự ông này chỉ làm chủ được vùng duyên hải nên chưa xưng vương.
Nam Hán không dám thí quân vì sợ bị nuốt chửng bởi 4 thế lực kia, nên bỏ ý định xâm lăng. Ðiểm này nói là dân Việt nô lệ quân Nam Hán cũng không đúng, đó là nói theo luận điệu của người Tàu có máu xâm lăng.
Khi ông Ngô Quyền mất thì con là Ngô-xương-Ngập tiếp nối công việc bỏ dở; nhưng vì tài hèn sức mọn nên việc chẳng thành. Do đó xứ quân Ðinh Bộ Lĩnh mới vượt trội và thống nhất quân lực làm một, dưới quyền chỉ đạo của mình. Thống nhất bằng chánh trị hay quân sự thì chưa biết, giống như Thủ Tướng Ngô Ðinh Diệm (1955-1956) đã thống nhất được các lượng lượng võ trang kháng chiến chống Pháp và Việt Cộng vào Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam trong tinh thần kết hợp toàn dân chống Cộng. Ðoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết, phải hay trái, mạnh hay yếu gì thì cũng bị nuốt bởi Thực Dân Pháp hay Việt Cộng, hay cả hai (một cổ 2 tròng).
w

Khi ông Ðinh Bộ Lĩnh giành được tự chủ, đặt đô tại Hoa Lư (Ninh Bình) thì không thông hiếu với Chiêm (Chàm) mà cũng không đòi đất đã bị đánh hôi trong lúc bị nhà Ðường thống trị. Tuy thống nhất lực lượng như quân Đại Cồ Việt còn rất yếu so với quân Chiêm vì quân Chiêm độc lập từ ngày lập quốc (40AD) và chẳng bị ai đánh cả. Họ lại chiếm cả khu Lâm Ấp của ta. Nhìn bản đồ thì đất đai của ta lúc đó bé hơn nước Chiêm.

Lợi dụng thế yếu sau khi Ðinh Tiên Hoàng Ðế băng hà, người Chiêm lại kéo binh thuyền tiến đánh Hoa Lư qua các cửa biển rồi tụ ở núi Non Nước thị xã Ninh Bình, ngã ba sông Đáy và sông Vân Sàng. Lúc này Quảng Bình thuộc đất Chiêm từ 180 năm (800-980) rồi nên đường thủy đi cũng gần. Theo kế hoạch hành quân thì thủy binh Chiêm tiến đến Hoa Lư (kinh đô nhà Đinh) bằng cửa Ðại Ác để vào sông Ðáy và cửa Càn (Thần Phù) Ninh Bình để vào sông Vân Sàng (sau khi qua khúc sông mang tên là Càn Giang và Trinh Nữ). Hai binh thuyền này hội nhau ở núi Non Nước (cách Hoa Lư 15 Km) rồi hợp lực tiến thẳng đến Hoa Lư.
Vì lòng trời không tựa nên khi hùng binh tiến đến Gián Khẩu (1/3 đoạn đường phải đi) thì gặp bão, thuyền đắm mất nhiều nên phải tự động lui binh.....Ðúng là:
"Sơn Hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư". (Lý Thường Kiệt)
Năm 981, chuyển sang đời Tiền Lê thì vua Lê Ðại Hành (Lê Hoàn, 980-1005) sai sứ thông hiếu. Không những vua Chiêm không tiếp mà còn nhốt tù xứ giả nữa...Ðây là hành động khiêu khích của kẻ khỏe.
Năm sau 982, để chứng tỏ thực lực của Ðại Việt, vua Lê đem quân đi đánh nước Chiêm.
Biên cương nước Chiêm lúc đó từ Quảng Bình đến tận Phan Thiết, phía tây đến Kontum, Pleiku, Buôn Mê Thuột. Phía đông là biển. Kinh đô nước Chiêm thì ở Ðồng Dương (thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay). Vua Lê Hoàn đánh thẳng vào Kinh Ðô; tuy thắng trận nhưng vì nước còn yếu, chánh sự chưa ổn định nên phải trả lại sự tự chủ cho dân Chiêm và rút quân về Hoa Lư. Trận đánh này chỉ có tính cách trừng phạt chứ không có mục đích đòi lại đất cũ. Mà có đòi cũng không được vì đất nước còn nhiều việc phải chấn chỉnh.
Sau khi rút quân (983) về thì có người quản giáp (có lẽ là vị tướng quân trang, quân khí, quân lương) là Lưu Kế Tông không đồng ý nên trốn lại và cướp ngôi vua. Ðược tin này thì Vua Lê Ðại Hành (Lê Hoàn) sai người ám sát Lưu Kế Tông rồi trao lại quyền cho dân tộc Chiêm, vì sợ họ phục thù. Dân Chiêm tôn một người họ Chế lên làm vua. Người này sinh quán ở Quy Nhơn nên chuyển đô về Phật Thệ (tức thành Chà Bàn).
Năm 1044, vua Chiêm lại gây hấn; vua Lý Thái Tôn thân chinh đem quân đi đánh. Quân Chiêm dàn binh với khí thế ngất trời ở sông Chợ Củi, chảy ra cửa Ðại-chiêm để nghênh chiến. Quân ta thắng trận và kéo thẳng đến thành Chà Bàn (tức thành Ðồ Bàn, nay là thành Quy-nhơn). Xong việc chiến thắng này thì vua Chiêm xin cam kết không gây can qua nữa. Bên ta lại lui binh mà không hề nói tới mảnh đất bị đánh hôi trong thời nhà Ðường từ Quảng Bình xuống đến đèo Hải Vân (tức Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên ngày hôm nay).
Năm 1069 nước Chiêm lại không chịu thần phục nữa, cắt giao hiếu và tính gây hấn vì đã hồi phục được sức mạnh quân sự và kinh tế rồi. Vua Lý Thánh Tôn đành phải cử danh tướng Lý Thường Kiệt (Thống Chế ngày hôm nay) làm đội tiên phong, còn mình thì cầm đại binh.
Ngày 23 tháng Ba năm Kỷ Dậu (17 avril 1069) khai hỏa đánh tiền đồn thủy binh quân Chiêm ở cửa Nhật Lệ (tỉnh Quảng Bình). Quân ta đại thắng.
Ngày 27 tháng Ba (21 avril 1069) tiến đánh cửa Tùng ở châu Ô (Quảng Trị).
Ngày mồng 3 tháng Tư (26 avril 1069) đánh cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Sau đó tiến tới sông Tu-Mao, tướng Chiêm là Bố-Bi-Ðà-La bày trận ở bờ sông để nghênh chiến. Vua Chiêm là Chế Củ đem gia đình bỏ chạy .....quân ta vượt bến Ðồng La rồi tiến thẳng đến thành Ðồ Bàn (Phật Thệ), không còn gặp sức kháng cự nào nữa. Dân chúng cũng không bỏ chạy như lần trước nữa.
Sử chép là vào tháng Tư năm Kỷ Dậu (mai 1069), Lý thường Kiệt cho quân đuổi và bắt được vua Chế Củ ở Phan-thiết thuộc châu Bôn-Ðà-Lãng. Ðể tạ tội thì Chế Củ đem 3 châu dâng cho Ðại Việt làm lễ khao quân. Ba châu đó thuộc tỉnh Quảng Bình ngày hôm nay (gồm Ðịa-lý, Ma-Linh, Bố-chính) và xin thần phục như trước. Châu Ma-linh đời Lý đổi thành Minh-linh, đời Trần giữ nguyên, nhưng thời thuộc Minh đổi thành Nam-linh. Ðời hậu Lê đổi thành 2 huyện Minh-linh và Do-linh. Châu Ðịa-lý đời Lý gọi là Lâm-bình, đời Trần là Tân-bình, đời Lê đổi thành Tiên-bình, nay là phủ Quảng-Ninh tỉnh Quảng-Bình. Còn châu Bố-chính đời Lý vẫn gọi là Bố-chính, thời thuộc Minh gọi là Tân-bình, nay là huyện Quảng-trạch.
²
Như thế là đời nhà Lý (Mai 1069, thể kỷ thứ 11) mới đòi lại được vùng đất Quảng-bình bị chiếm từ đời nhà Đường ở thế kỷ thứ 8 bằng quân sự sau 269 năm (800-1069) bị người Chiêm chiếm.
Ðến đời nhà Trần, năm Hưng Long thứ 14 (1307) Thái Thượng Hoàng Nhân Tôn sang thăm giao hữu với vua Chế Mân sau khi đã liên minh đuổi được quân Mông Cổ, giành lại độc lập cho cả 2 nước đồng minh trong cơn nguy biến. Trong khi đàm đạo, không biết trao đổi ra sao mà vua Chế Mân đồng ý trả lại 2 châu là Quảng-trị (châu Ô) và Thừa-Thiên (châu Lý) để đổi lấy công chúa Huyền Trân sau 507 năm mất với người Chiêm (1307-800).
Bên ngoài thì nói là đồ dẫn cưới (sính lễ), nhưng kỳ thực thì bên trong không phải vậy. Lúc đó Chế Mân quá già mà Huyền Trân là đương thì nên không thể nói là ông mê gái được. Ðúng ra thì phải nói là nhà Trần xin chuộc lại 2 châu Ô và châu Lý bằng cách hiến dâng con gái của mình; nếu vậy thì quá mất mặt trong khi vừa thắng quân Mông xong. Vậy thì lý do có lẽ là vua Chế Mân đã muốn hoàn trả cho đất Việt 2 châu Ô và Lý nhưng chưa tìm ra lý do thỏa đáng. Và cũng có thể là sau khi nuốt vùng Lâm-Ấp của Việt Thường (từ đèo Hải-vân lên đến Quảng Bình vào thế kỷ thứ 8) thì người Chiêm bị phong tục Việt đồng hóa; vì thế nên mới có trò sính lễ cưới để đẹp mặt đôi bên.
Ðây đúng là dùng Chánh Trị để đòi lại vùng đất đã bị cưỡng chiếm; không mất một mũi tên, không tốn một giọt máu mà 2 bên đều hả hê vui mừng cả.....Người thiệt duy nhất là công chúa Huyền Trân bị dùng làm vật tế thần mà không ai nói tới. Người dân đôi bên cũng chẳng thấy ai chống đối. Sau đó đổi tên châu Ô (Thừa Thiên) và châu (Quảng Trị) thành châu Thuận và châu Hóa (Huế), tức là đồng thuận trở về đất mẹ.
Khi Chế Mân băng hà, theo tục lệ người Chiêm thì Huyền Trân Công Chúa phải lên dàn thiêu sống. Nhưng bên Ta đã tổ chức cướp Hoàng Hậu của vua Chiêm, vì thế nên có mối thù liên miên không dứt. Con cháu Chế Mân cứ nghĩ đến chuyện chiếm lại đất của nước Ðại Việt mà không hề suy hơn tính thiệt để đến nỗi bị xóa tên trên bản đồ trong vùng từ năm 1471 bởi vua Lê Thánh Tông.
Năm 1313, vua Trần Anh Tôn phải đích thân đi chinh phạt. Ðến Tân-bình (tức châu Ðịa-lý, nơi sông Gianh) thì chia quân làm 3 đạo tiến thẳng đến kinh đô Chà-Bàn để 3 mặt giáp công (đường biển, đường núi ven biên giới Lào và đường bộ trực chỉ). Vua Chiêm là Chế Chí phải đích thân ra hàng và xin chịu thần phục như trước. Vua lại kéo quân về và trả nước cho họ Chế cai trị.
Năm 1352, vua Chiêm là Chế A-Na băng hà, rể là Trà Hòa Bố Ðể  cướp ngôi. Con Chế A-Na là Chế Mỗ sang cầu cứu.
Năm 1353, vua Trần Dụ Tôn sai đem quân đưa Chế Mỗ về phục hồi quyền lực; nhưng bộ binh Việt tiến đến Cổ Lũy (sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi) thì phải lui binh vì thuyền lương bị quân Chiêm đánh chìm. Thừa thắng xông lên, quân Chiêm ra đánh châu Hóa (tức tỉnh Thừa-thiên, Huế), rồi giữ luôn không trả cho nguyên chủ. Bên ta thì Trương Hán Siêu phải cực nhọc lắm mới giữ được châu Thuận (Quảng Trị).
Năm 1362, tình hình nguy khốn do quân Chiêm quấy phá. Quân Chiêm ra đánh đến Lâm Bình (phía nam sông Gianh) thì thất bại nên quân Việt thừa thắng đưa Chế Mỗ lên ngôi.
Năm 1367, quân Chiêm ra đánh Lâm Bình nhưng thất bại.
Năm 1368 vua sai tướng Trần Thế Hưng đem quân đi chinh phạt, nhưng tới Chiêm Đổng (Quảng Nam) thì thua to mảnh giáp không còn, quân tan không người trở về. Từ đây Chiêm Thành chuyển sang thế mạnh và uy hiếp dân Việt.
Năm 1371 (avril), Chế Bồng Nga đem binh thuyền tiến đánh Thăng Long qua cửa biển Ðại An  (cửa sông Ðáy; khi trước mang tên là Ðại Ác). Triều Ðình, Vua Tôi nhà Trần và các quan Ðại Thần đều phải trốn chạy nhục nhã. Quân Chế Bồng Nga vào Thăng Long đốt phá kinh thành rồi lui binh; nhưng không quên bắt theo một mớ thanh niên Nam và Nữ về nước phục dịch.
Ø     Lúc này chắc là toàn dân Chiêm hả dạ, ca khúc khải hoàn liên miên.
Năm 1375 vua Trần Duệ Tôn chuẩn bị binh mã đánh báo thù. Tu bổ đường xá từ châu Cửu Chân (phía nam Thanh Hóa) đến núi Hoành Sơn (sông Gianh) để làm đường chuyển quân. Công tác tiếp vận quân lương, quân nhu, quân cụ và binh khí...tất cả đều trao cho Hồ Quý Ly đảm trách trong khúc đường từ Nghệ An đến Tân Bình (bên kia sông Gianh).
Ðầu năm 1377 vua Duệ Tôn đem quân tiến thẳng đến Chà-bàn; không ngờ bị phục binh của Chế Bồng Nga đánh úp thua to, vua bị bắt và bị chém bêu đầu ở ngoài chợ.
Lúc này chắc là dân Chiêm ăn mừng liên hoan không ngưng nghỉ để lấy khí thế cho quân dân tái chinh phạt Thăng Long.
Năm sau 1378, Chế Bồng Nga lại đem quân chinh phạt Thăng Long. Lúc này vua tôi bỏ chạy có cờ. Quân sỹ thì cố thủ không dám ra ngoài mở cuộc tấn công. Chế Bồng Nga đánh phá Nghệ An rồi kéo thủy binh vào Thăng Long bằng cửa Ðại An (sông Ðáy), chuyển qua sông Ðại Hoàng (khúc sông Hồng ở phía bắc tỉnh Nam Ðịnh). Hồ Quý Ly, và Ðỗ Tử Bình lãnh quân thủy và bộ, chặn đánh ở khúc sông Ngu Giang (thuộc Thanh Hóa), quân Chiêm thua nên phải lui binh.
Năm 1382, quân Chiêm lại tiến đánh Thanh Hóa. Hồ Quý Ly đóng quân ở núi Hàm Rồng để thủ, và tướng Nguyễn Ða Phương đem thủy binh trấn ở cửa Thần Phù (tỉnh Ninh Bình). Lúc đó nhánh sông Trinh Nữ có ngả thông với sông Chính Ðại ở Thanh Hóa. Hiện nay thì ngả thông này đã bị lấp đi rồi. Tướng Nguyễn Ða Phương dùng mưu thắng giặc nên bộ binh quân Chiêm phải rút về. Lúc này binh lực quân Việt quá yếu, Quý Ly thì thủ, Ða Phương thì dùng mưu để lừa địch tự ý rút lui.
Năm sau 1383, quân Chiêm lại tiến đánh Thanh Hóa, đại thắng rồi kéo binh thẳng ra trừng phạt Thăng Long; Thủy Bộ đồng loạt tấn công. Quân ta thua to mảnh giáp không còn; khi quân Chiêm rút lui thì họ lại đem theo một mớ thanh niên Nam và Nữ về Ðồ Bàn để phục dịch.
Ø     Chắc dân Chiêm hả hê ăn mừng chiến thắng lớn này.
Năm 1389 (novembre), sau 6 năm bổ xung quân số và dưỡng binh thì quân Chiêm do Chế Bồng Nga thống lãnh, lại kéo binh ra đánh Thanh Hóa, quân ta thua to. Quý Ly và tướng Phạm Văn Khải cùng Nguyễn Ða Phương phải bỏ quân sỹ để chạy thoát thân; lớn chạy trước, bé chạy sau.....quân hồi vô lệnh. Thừa thắng xông lên, binh thuyền Chế Bồng Nga kéo đến uy hiếp Thăng Long. Vua Tôi và Quần Thần nhà Trần đều bỏ trốn để quân lính tự chống đỡ một mình! Toàn thể binh lính Việt đều bị cấm trại và án binh bất động ở thế tử thủ trong tình thế nguy khốn.
Do Tổ Tiên Phù Hộ nên Chế Bồng Nga đã làm nhục tên hầu trai trước mặt mọi người, vì thế nó thù. Ðang đêm hắn trốn trại sang bên ta và cho biết hết kế hoạch trận đánh hôm sau; ngoài ra còn chỉ điểm chiến thuyền chở Chế Bồng Nga và hiệu lệnh ra sao nữa.
Ðược tin này, quân ta gom hết tên lửa lại và khi lâm trận thì cứ nhè thuyền Chế Bồng Nga mà nã bắn tới tấp. Rút cục Chế Bồng Nga bị chết cháy, quân Chiêm lui binh, Thăng Long thoát nạn binh đao. Vua Tôi và Quần Thần lại lục tục kéo về....
Ø     Thật là nhục nhã cho dân Việt!
Khúc ngoặt của dân Chiêm: Khi lui binh về thì tướng La Khải cướp ngôi họ Chế mà dân Chiêm không nói gì, họ cho đó là chuyện của bọn Triều Thần với nhau.
Năm 1400, lợi dụng vua La Khải băng hà, Quý Ly sai tướng Ðỗ Mãn và Trần Tùng đem 15 vạn (150.000) quân đi báo thù. Nhưng vì mất liên lạc với thuyền lương nên giữa đường Trần Tùng phải lui binh. Thiếu tiếp ứng nên Ðỗ Mãn cũng lui binh luôn.
Năm 1402, Ðỗ Mãn được cấp binh đi đánh tiếp. Thắng trận và buộc vua Chiêm là La Ba-đích đầu hàng và hiến đất Chiêm-đổng (Quảng Nam) và Cổ-lũy (Quảng Ngãi).
Sau đó, vì chiến tranh liên miên với nước Chiêm làm tiêu hao tiềm lực nên nước ta lại bị lệ thuộc nhà Minh. Nhân cơ hội này nước Chiêm lại đánh và chiếm tới sông Bến Hải (thâu hồi tất cả các châu đã nộp khi trước).
Ðời Lê sơ (Lê Lợi) 1428 sau tây lịch, sau khi thắng quân Minh thì Ngài đòi lại đất Thuận Hóa và đặt quan Lộ Tổng Quảng và Lộ Tri Phủ để đóng chốt ngăn chặn quân Chiêm. Mấy đời vua sau cũng đi đánh Chiêm Thành, nhưng chỉ để giữ vững đất châu Hóa (Thừa-thiên) mà thôi, chứ không hề có ý định chiếm đất phía nam đèo Hải Vân.
Năm 1446, là thời vua Lê Nhân Tôn mới có 5 tuổi: Quân Chiêm lại quấy phá nên tướng Lê Thụ và Lê Khả đem binh đi đánh, chiếm được Chiêm Ðổng (Quảng Nam) và Cổ Lũy (Quảng Ngãi) rồi thẳng đường đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn), chiếm được thành Chà Bàn. Bắt được cả vua Chiêm đem về Thăng Long. Vua Lê Nhân Tôn (mới có 5 tuổi, mọi việc đều do Phụ Chính, tức ông ngoại quyết định cả) lập cháu phế vương là La Quý Lai làm vua và trả lại đất đã chiếm là Quảng Nam và Quảng Ngải, giữ giới tuyến là đèo Hải Vân như cũ.

Cước chú địa danh:
Thành Chà Bàn là tên của người Chiêm đặt ra, người Việt mình chuyển âm thành Ðồ Bàn.
Về sau vì chiến dịch diệt Chiêm nên năm 1469 vua Lê Thánh Tôn cho người vẽ bản đồ hành quân với tên Việt để nếu có bị lộ thì quân Chiêm cũng không biết địa danh đó ở đâu. Vì thế nên Chà Bàn đổi thành Quy Nhơn. Sau này 1802, khi Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn thì đổi thành Bình Định: Có nghĩa là đã bình định được "giặc" Tây Sơn-coi sử nhà Nguyễn thì rõ.

Sau đó dòng dõi La Quý Lai bị lật đổ bởi Bàn La Trà Duyệt.
Trà Duyệt nhường ngôi cho con là Trà Toàn. Trà Toàn bắt đầu đánh canh bạc chót là liên minh với nhà Minh bên Tàu để xóa bỏ nước Việt, một nửa thành Tàu và nửa còn lại thành Chiêm....Quân Chiêm gặm nhấm đến tỉnh Nghệ An (Vinh), triều thần lo mất ngủ. Vì lý do này nên Triều Thần ở Thăng Long mới đồng thanh quyết định giết vua và Thái Hậu rồi đem kiệu ra đón hoàng tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tôn) về lo việc nước....Khi trước, vua Lê Thánh Tôn (tức hoàng tử Tư Thành) đã bị vua cha hạ lệnh giết, nhưng nhờ có Quốc Sư Nguyễn Trãi can thiệp nên chỉ bị khai trừ ra khỏi hoàng tộc lúc còn sơ sinh. Mẹ con phải nương náu cửa Phật. Lẽ dĩ nhiên là Ngài cũng ra điều kiện để tránh cảnh Kiêu Binh, cảnh vua Bồ Nhìn....Đây là con dao 2 lưỡi, biết dùng thì tốt còn không thì mất mạng như chơi (chúng ta sẽ phân tích ở bài sau: Nguyên nhân suy thoái để có thảm trạng ngày hôm nay)
P     Ðây cũng là khúc ngoặt của lịch sử nước ta: Tâm Linh bắt đầu suy thoái từ đây.
P     Thảm trạng ngày hôm nay cũng do đường lối chánh trị cứu nguy dân tộc lúc đó của vua Lê Thánh Tôn.
²
Năm 1470 (septembre) vua Trà Toàn tiếp tục cất binh tiến đánh sau khi đã lấy được đất Thuận Hóa. Vì chủ trương chiếm đất để Chiêm hóa dân Việt, nên lần này dùng bộ binh làm chủ lực chứ không phải thủy binh như các vua trước, đánh phá, cướp bóc rồi trở về.
Lúc đó vua Lê Thánh Tôn đã huấn luyện được 26 vạn (260.000) quân tinh nhuệ trong vòng 10 năm trị vì (1460-1470). Toàn quân được chia làm 2 cánh thủy (thủy binh) và bộ (bộ binh) phối hợp đồng tiến để đánh thẳng vào Chà-bàn. Thủy binh cho chính Ngài thân chinh đi thẳng vào thành Ðồ Bàn rồi đánh thốc lên để tạo thế gọng kìm.
Năm 1971, Trà Toàn say men chiến thắng, đã đánh chiếm hết Nghệ An và sắp đào mả vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) ở Thanh Hóa nên hậu cứ mất mà không hay. Đến khi biết thì quá trễ, lúc này Trà Toàn sai sứ giả đi thuyền, vượt biển sang đảo Hải Nam để dâng sớ xin hiến nước Chiêm cho nhà Minh bên Tàu.
Vì mả tổ linh thiêng nên thuyền tuần duyên của ta vớ được, bèn đốt sớ, giết sứ giả và làm đắm thuyền để phi tang. Sau đó sai người phi báo ngay cho vua đang hành quân ở Quy Nhơn.
Nhận được tin này thì Ngài hết sức lo sợ, một mặt sai tốc chiến, tốc thắng giết ngay Trà Toàn tại chiến trường, mặt khác đổi ý định đánh trừng phạt như xưa thành đánh để hội nhập nước Chiêm với nước Việt làm một. Chấm dứt vĩnh viễn nạn binh đao vì thù hận.
²
Vì thay đổi đường lối chính trị nên Ngài cho các vùng còn lại (bằng 2/5 lãnh thổ nước Chiêm khi trước) được quyền tự trị dưới sự giám sát của nhà vua (nghĩa là tự do sinh sống không phải đóng thuế cho trung ương), và úy lạo dân Chiêm trong vùng chiếm đóng nên đời sống người dân Chiêm không bị xáo trộn, không có cảnh bỏ nước ra đi. Thay vì gọi các vùng tự trị là châu thì Ngài gọi là nước; nhưng trong thực tế thì cái quyền liên lạc với ngước ngoài đều do Thăng Long quyết định cả, cái quyền thành lập quân đội cũng không có. Chỉ được quyền sống theo văn hóa của mình mà thôi, điều này thì được tôn trọng triệt để.
Để tạo đời sống hài hòa giữa Việt và Chiêm thì Ngài đã áp dụng chánh sách Hòa Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hoá. Người Chiêm được quyền đi thi như người Việt, khi đỗ thì trở về vùng mình ở để chăm sóc cho dân của mình. Do đó có đời sống an bình cho đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh.
Vì nhu cầu chống Chúa Trịnh nên các "Chúa" nhà Nguyễn đã bức hại dân Chiêm để gây xung khắc sắc tộc. Trên thực tế thì đây là hành động của các chúa Nguyễn chứ không phải của dân Việt.....Bằng chứng: Đại bộ phận dân Việt đều ở đàng ngoài dưới triều nhà Lê và Chúa Trịnh. Hơn nữa người Việt vốn có tâm tính hiếu hòa, nhân bản và hiếu khách.
w
Sau khi Trà Toàn bị thanh toán thì vùng đất chiếm được từ đèo Hải Vân xuống đến Quy Nhơn được gọi là vùng Quảng Nam, người dân sống trong vùng đó được quyền thi Hương để lấy bằng Tú Tài hay Cử Nhân quản trị đất nước (tương đương với Học Viện Quốc Gia Hành Chánh). Quảng Nam theo nghĩa tiếng Việt khi đó có nghĩa là một vùng trù phú rộng lớn ở phía nam; như chữ Quảng Đông và Quảng Tây người Việt gọi là lưỡng Quảng thì người Tàu gọi là lưỡng Việt -coi thêm cuốn Phan Bội Châu Tự Phán.
Theo quy luật thi cử thời đó thì: Sau khi ban Giám Khảo chấm đậu (vua không có quyền can thiệp vào việc chấm thi) thì mặc nhiên được nhà vua bổ nhiệm làm quan trong vùng nguyên quán của mình để hòa đồng sắc tộc, bảo vệ cuộc sống hài hòa và thăng tiến. Vùng còn lại có diện tích bằng 2/5 nước Chiêm thì chia làm 3 châu hưởng quy chế Tự Trị. Ðó là:
P   Từ Phú Yên (Tuy Hòa) vào đến hết Khánh Hòa (Nha Trang) là vùng Hoa Anh, người ta quen gọi là nước Hoa Anh.
P   Vùng Phan Rang và Phan Thiết (hay Phan Rí) là vùng Chiêm Thành mà người ta gọi là nước Chiêm Thành (có tháp Chàm).
P   Vùng phía tây (Komtum, Pleiku, Ðà Lạt, Buôn Mê Thuột) gọi là vùng Nam Bàn hay nước Nam Bàn.
Vì muốn Hội Nhập mọi sắc dân nên vua Lê Thánh Tông ban hành bộ Luật Hồng Ðức để mọi công dân được hưởng quyền lợi như nhau và có cùng chung một trách nhiệm đối với đất nước. Vì thế nên mọi người đều an vui chấp nhận các nền văn hóa khác biệt của nhau. Coi bộ Luật Hồng Ðức thì rõ.
Về sau, vì Chúa Nguyễn cần tạo uy quyền cho dòng họ mình để đối đầu với họ Trịnh, nên đã bức bách dân nước Hoa Anh và nước Chiêm Thành với chánh sách ÐỒNG HÓA nên họ bỏ nước vào tỵ nạn ở nước Nam Bàn (tức vùng Tây Nguyên ngày hôm nay- có mỏ Bauxite).
Ngày hôm nay Việt Cộng cũng muốn Ðồng Hóa Việt thành Tàu với văn hóa ngoại lai (Mác, Lê, Mao) nên đã bức bách mọi sắc dân mà trong đó sắc dân ở Tây Nguyên lãnh phần thiệt thòi nhiều nhất. Nếu vùng Tây Nguyên này bị giặc Tàu khống chế thì toàn thể nước Việt sẽ bị Tàu hóa rồi đi đến tiêu vong. Vì vậy phải tạo cuộc sống hài hòa bằng cách hội nhập văn hóa và hoà đồng sắc tộc thì mới chung sống hài hòa với nhau được; còn chia rẽ là chết không kịp ngáp, dù là sắc dân nào thì cũng thế mà thôi.
Sắc tộc là người dân đang sinh sống trên mảnh đất Việt Nam mà không có quê hưong nào khác ngoài nước Việt.
Kiều dân là người nước ngoài, đã có quê hương của mình nhưng sinh sống trên mảnh đất Việt Nam thì theo quy chế cư trú. Đừng để kiều dân Tàu sinh sống trên đất nước Việt Nam lài biến thành vùng Tự Trị như kiểu SINGAPOUR. Singapour khi trước thuộc đất Mã Lai, khi người Anh thống trị thì họ mở thương cảng lấy tên là Singapour rồi cho người Tàu đến lập nghiệp. Khi trả độc lập thì người Tàu ở Singapour đòi tự quản với sự nâng đỡ của người Anh; sau này, khi cần thì Singapour có thể là căn cứ quân sự của Bắc Kinh.
Cùng thời thì Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bắt người Tàu ở Saigon và Chợ Lớn phải Hồi Tịch và chỉ cho phép người Tàu được hoạt động trong một số nghề để kiếm sống. Cấm người Tàu mở trường Tàu và để bảng hiệu bằng chữ Tàu, đồng thời mở trường Việt miễn phí để cưỡng bách giáo dục cho người hồi tịch. Con trẻ Việt được quyền học chung với điều kiện phải là thành phần xuất sắc để các bạn hồi tịch noi theo.
Nay chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm gì để giải quyết các trung tâm Hoa Kiều biệt lập do Việt Cộng dựng lên để đồng hóa người Việt thành Tàu như thời Mã Viện?
Nên nhớ rằng: Vùng Hoa Nam, tức phía nam sông Dương Tử, khi trước thuộc nước Văn Lang (từ 600BC) nay người Tàu gọi là dân Giang Nam hay La Chine du Sud. Họ thuộc sắc dân người Hoa gốc Việt. Nay họ trở lại làm người Việt thì tây phương gọi là Hồi Tịch, còn dân Việt thì gọi là Về Nguồn để cùng đồng bào bảo vệ nếp sống nông nghiệp của Bách Việt trong cái nôi chưa bịa Hán Hóa. Chúng ta không thể gọi họ là người Việt gốc Hoa hay gốc Tàu được. Tàu hay Hoa là sắc dân sinh đẻ trong địa phận nhà Chu, tức ở lưu vực sông Hoàng Hà. Tàu là danh từ Triệu Việt Vương đặt cho quân xâm lăng vào năm 182BC, còn Hoa là nói tắt của danh từ Trung Hoa (trung tâm tinh hoa của vũ trụ) được Lã hậu tự đặt cho triều đại nhà Hán cái quyền đi xâm lăng nước người dưới cái "bùa" đem ánh sáng văn minh để khai phóng cho dân Di ở phía nam. Ở đó có Miêu tộc sống bằng nghề nông, nhưng người Tàu phát âm chữ Miêu thành chữ Man; về sau dân Việt nhại lại thành chữ Mán.
Người Việt hân hoan đóng nhận những người hồi tịch, nên tự trong lòng đã dành danh từ triều mến, trân quý và thân thương cho họ. Còn người Tàu thì sỉ vả dân trở về nguồn là Bái Tổ Quy Tông; nghĩa là đã biết hối lỗi: Nay lạy Tổ xin tha tội bỏ đi và cho phép quay về Tông đường của mình.
Mặc dù danh từ Ngoại Giao của nhà cầm quyền khác với danh từ dân gian nhưng người Việt không bao giờ có danh từ trịch-thượng xỉ-vả người ta như não trạng người Tàu. Đó là sự khác biệt nếp sống Nông Nghiệp (Việt: Nhân bản) với nếp sống Du-mục (Tàu: Bạo lực)...Vậy thì chỉ có tiêu diệt nhau chứ làm sao mà chung sống hòa bình với nhau được? Ngoại trừ người Tàu phải bỏ não trạng trịch-thượng đi thì mới có thể có xã hội hài-hòa được.
w

ĐẤT  PHÙ  NAM

DANH XƯNG THEO THỜI ĐẠI
·      Lý và Làng
Khi nước Văn Lang được thành lập (2.879BC) theo kiểu Liên Bang thì lấy đơn vị chung là Làng thay cho Lý, cho Buôn, cho Bản...đã có sẵn từ trước.
Trong Lý thì có ông Lý Trưởng, trong Bản thì có ông Quan Lang; vì hội nhập văn hóa nên mọi cách tổ chức vẫn giữ nguyên trạng, vì thế cho nên không có ông Làng Trưởng mà trong làng lại có ông Lý Trưởng, có ông Quan Lang...
Lý là một dặm (1,6Km) như Hải Lý dùng cho thủy lộ; kinh lý là Triều Đình đi xem xét công việc làm của từng làng ...Do đó nhà Trần mới lập ra cái Đình để phái đoàn thanh tra có chỗ cư trú lo việc cho dân. Như vậy là nhà Trần đã có cuộc thanh tra định kỳ. Khi không có phái đoàn thì cái đình được dùng vào việc họp chợ, họp làng.
Nhà Tây Sơn, vì cưỡng bách giáo dục nên biến cái Đình thành các lớp học; đây là ý kiến của ông Ngô Thì Nhiệm lo việc mở mang dân trí.
Nhiều làng họp lại thành một tiểu bang gọi là Bộ Lạc. Tổ chức hành chánh trong một Bộ Lạc thì có Lãnh Vương được giúp bởi Lạc Hầu (văn thần) và Lạc Tướng (võ thần). Do đó mới có chữ Xã Hội. Xã là làng. Xã Hội là tập họp các xã lại thành Tiểu Bang (Bộ Lạc)

·      Trấn và Tỉnh:
Về sau đời sống phức tạp nên đẻ ra TRẤN, và trong một Bộ Lạc có nhiều Trấn. Trấn có nghĩa là chặn lại, tức là đủ sức để tự vệ khi bị xâm lăng. Dưới thời Minh Mạng thì đổi thành Tỉnh.
Ø         Tỉnh là tiếng Tàu, và cũng là đơn vị hành chánh của Tàu.

·      Trấn, Châu, Phủ, Huyện và Quận:
-   Tùy theo triều đại nên chữ Trần được đổi thành chữ Châu. Thời Hồng Đức (1470) thì chữ Châu ngang với chữ Phủ. Phủ là một Huyện đông dân ở miền xuôi (Kinh), còn Châu là một Phủ của sắc dân sống trên miền ngược (Thượng)
-   Sau đó ít lâu, dân cư đông đúc, để tiện việc hành chánh nên nguời ta lại vẽ lại và trả lại tên cho TRẤN. Lúc này một Trần lại được chia ra làm nhiều khu tùy số dân cư hay tùy người Kinh (miền suôi) hay người Thượng (mạn ngược) mà gọi là: Châu, Phủ hay Huyện rồi đến Tổng, đến Làng đến xóm....Vì vậy đọc tên một vùng hành chánh thì nên xem tên đó thuộc Triều đại nào thì mới định được tầm quan trọng của một vùng hành chánh.

·      Lãnh Vương và Quân Vương:
Thời kỳ nô lệ thì có Quân Vương lãnh đạo kháng chiến võ trang, lúc này chưa có Lãnh Vương và cũng chẳng có Lạc Hầu. Quân Vương là Lãnh Tụ kháng chiến.

ĐỊA LÝ
Phù Nam là đất bồi ở phương nam, tức đồng bằng sông Cửu Long ngày hôm nay.
Tới năm 1471 thì đất Phù Nam còn chìm trong biển. Nước biển tiến tới Bình Thuận, Tonlé Sap. Đảo Phú Quốc còn ở xa tít ngoài biển, chỉ có dân đánh cá tá túc khi biển động.
Thời Minh Hương (boat people nhà Minh tránh nạn nhà Thanh vào năm 1628) có binh thuyền tỵ nạn của Mạc Cửu (người nhà Minh) đến phá rừng lập đô thị ở Hà Tiên là đất vô chủ nên gọi là Minh Hương. Chữ Hương có nghĩa là vùng, như quê hương, tha hương cầu thực. Quê hương là vùng mình sinh đẻ, còn tha hương là vùng quê của người khác. Minh là người Ngô dưới triều đại nhà Minh.
³
Năm 1471 vua Lê Thánh Tôn hội nhập nước Chiêm vào nước Đại Việt theo chánh sách Hòa Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa thì  nước biển tiến tới tỉnh Bình Thuận (Phan Thiết hay Phan Rí) và biển hồ Tonlé Sap. Vùng đất đồng bằng sông Cửu Long đang được bồi nhưng chưa ở được. Lúc đó Phnom Pênh là bờ biển.
Chiếu theo luật biển xưa cũng như nay thì đất bồi ở phương nam, tức đất Phù Nam thuộc thềm lục địa của cả 2 nước Chiêm và Chân Lạp. Miền Đông thuộc nước Chiêm và miền Tây thuộc Chân Lạp (tức Khmer). Dân đông thì di xuống khẩn hoang, ai đến trước thì đất của ngưới đó.
Lúc này dân Chân Lạp có nhiều lắm là 3 triệu người; khai khẩn vùng đất hiện có của mình cũng chưa xong thì làm gì mà vươn ra tới phía đông được. Lúc đó chúa Nguyễn vì phải phòng thủ phía sông Gianh để ngăn quân Trịnh nên cũng không có người đi khẩn hoang; do đó mới cưỡng bức dân Chiêm ở Hoa Anh (Phú yên và Khánh Hòa) và ở Chiêm Thành (Ninh Thuận và Bình Thuận) nam tiến để khai khẩn vùng đất bồi (Phù nam) lấy tài nguyên để cung ứng cho nhu cầu chiến trường chống quân Trịnh. Khai phá vùng đất bồi như Cà Mâu ngày hôm nay là cả một sự vất vả và nguy hiểm đến sinh mạng do muỗi độc đốt, rắn rết thuồng-luồng ba-ba ăn thịt, thú rừng đến phá hoại không yên; nước uống thì độc địa. Khi hành quân vào vùng Cà Mâu thì lính Mỹ chỉ chịu được có 7 ngày là phải lui binh.
Dưới thời vua Lê Thánh Tôn (1471) thì Hoa Anh và Chiêm Thành là vùng tự trị nên dễ thở và không nghĩ đến chuyện tỵ nạn hay chống đối chi cả. Về sau, vì nhu cầu chiến trường nên dưới thời Chúa Nguyễn họ bị bức hại. Phần tử chống đối thì di sang vùng tự trị Nam Bàn (Pleiku, Kontum, Buôn Mê Thuột) để định cư.

Ý NGHĨA DANH TỪ THỜI XƯA
·       Lâm-ấp: Chiến khu trong rừng, bất khả xâm phạm thuộc vùng Việt Thường, một tiểu bang của nước Văn Lang. Lãnh vực Việt Thường từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân ngày hôm nay.
·       Chiến khu Lâm Ấp chiếm một dẻo rừng núi hiểm trở từ Hà Tĩnh đến đèo Hải Vân
·       Danh xưng của chữ Bộ Lạc: Bộ Lạc là tiểu bang. Bộ là vùng; Lạc là yên vui.
Dưới thời nô lệ thì Thực Dân Pháp dịch chữ Bộ Lạc sang chữ Tribu để hạ nhục dân Việt. Chữ Tribu là Tù; trong một Tù thì có Tù Trưởng, không có văn thần và võ thần như một quốc gia. Theo lời nói người xưa thì: Trong một Bộ Lạc có ông Lãnh Vương (nguyên thủ), có Lạc Hầu (quan văn) và Lạc Tướng (quan võ) để bảo vệ và xây dựng đất nước.

Lúc đầu (2.879BC) nước Văn Lang có 15 tiểu bang (lúc đó gọi là Bộ Lạc), mỗi Bộ Lạc phải tự đặt cho mình một cái tên trong đó có chữ Việt để ngụ ý tiểu bang của mình có đặc thù gì như: Lạc Việt, Âu Việt, U Việt, Việt Điền.......Việt Thường. Việt có nghĩa là vượt mọi khó khăn để tiến bằng người, không nhanh mà cũng chẳng chậm. Tức Cầu tiến
Vào năm 600BC mở thêm 3 tiểu bang là Ngô-việt, Bách-việt và Mân-việt thành 18 tiểu bang, sau khi Việt Vương Câu Tiễn vùng Lạc Việt đánh chiếm nước Ngô của Phù Sai để chấm dứt vỉnh viễn nạn binh đao vì hận thù. Chánh sách là Hoà Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa để có cuộc sống hài hòa giữa các sắc dân với nhau.
Về sau con cháu để mất 7 tiểu bang dưới triều nhà Thanh 1628 sau tây lịch.
Bảy tiểu bang đó là: Ngô-việt, Bách-việt, Mân-việt và đảo Hải Nam (Hải-việt?) nên chỉ còn 11 tiểu bang.
Năm 1471 bình được Chiêm Thành nên đặt thành vùng Quảng Nam (tức Chiêm-việt: người Việt gốc Chiêm) thành 12 tiểu bang cho đến ngày hôm nay (2014).
Về sau chúa Nguyễn khai phá vùng đất bồi, không người ở nên có thêm 1 hay 2 hay 3 tiểu bang nữa. Tiểu Bang sau cùng là Trấn Hà Tiên do Mạc Cửu người Minh Hương di tới được phong làm Tổng Trấn (vậy tạm gọi là Minh-việt). Việc phong cho Mạc Cửu làm Tổng Binh chứng tỏ là các chúa Nguyễn thiếu người quản trị vùng đất bồi.
Minh là người dân của triều nhà Minh di tới vào khoảng năm 1628 sau tây lịch. Triều đại nhà Minh trị vì được 260 năm (từ năm 1368 tới năm1628)
²

Khai hoang đất Phù Nam
Phù Nam là đất bồi ở phương nam. Tức đồng bằng sông Cửu Long, phần đất miền Đông thuộc nước Chiêm, phần đất miền Tây thuộc Chân Lạp.
Các hoang đảo như Phú Quốc, Côn Sơn dân chài lưới nào định cư ở đó thì đảo đó của người nước đó. Các đảo này cũng cần phải khai hoang giết rắn rết, cá sấu, ba-ba.... và thú dữ thì mới thành đất lành chim đậu được. Do đó đảo Phú Quốc và đảo Côn Sơn thuộc người Việt.
Các đảo san hô không người cư ngụ thưòng xuyên thì phải chiếu theo công ước quốc tế về thềm lục địa, hải phận kinh tế......Vì vậy người Khmer không thể nhận xít lục tỉnh là đất của họ. Bây giờ thì Phú Quốc cách xa đất liền, mai này đất bồi biến Phú Quốc thành một vùng lọt thỏm trong đất Khmer thì không biết lúc đó tính sao? Phú Quốc là một vùng đất Việt trong lãnh thổ Khmer; hay Khmer phải trả vùng đất bồi phía nam (Phù Nam) cho đảo Phú Quốc?

Vết dàu loang:
Thoạt đầu chúa Nguyển thành lập:
Phủ Phú Yên, Phủ Bình Khang và Phủ Diên Khánh thuộc vùng tự trị Hoa Anh (Phú yên và Khánh Hòa) bị Chúa Nguyễn dùng cường quyền áp bức trước tiên, biến vùng tự trị thành vùng bị đồng hóa. Những người không theo thì vào vùng Nam Bàn tỵ nạn. Nam Bàn là vùng Kontum, Pleiku, Buôn Mê Thuột. Việc sát nhập này không mấy khó khăn, nhưng gây nhiều bất hòa cho đến tận ngày hôm nay.
Sau khi yên vị thì lại gậm thêm Phủ Bình Thuận thuộc vùng tự trị Chiêm Thành (Phan Rang và Phan Thiết). Những người không theo thì vào vùng Nam Bàn mà tỵ nạn.
Sau khi ổn định đuợc 2 vùng tư trị kể trên thì Chúa Nguyễn lại đi một bước xa hơn là bắt người dân Chiêm ở đó làm nô lệ đi khai phá vùng đất bồi phía nam (Phù Nam) để lập thêm Phủ, Châu hay Trấn mới theo sự quan trọng của diện tích đất bồi như:

Phủ Gia Định (Đồng Nai) : Biên Hòa, Gia Định
Dưới thời chúa Nguyễn Hiếu Minh, dân Chiêm thuộc vùng Hoa Anh và Chiêm Thành bị cưỡng bách đi làm lao nô để khai phá đất bồi ở Đồng Nai lập nên phủ Gia Định. Tổng hành dinh là đất Đồng Nai.
Công việc rất nặng nhọc: Giết rắn rết, cá sấu, ba-ba...và thú dữ, chặt cây làm nhà, vượt đất làm nền, canh tác đất đai và những việc nặng nhọc khác. Tuy không phải là rừng thiêng nước độc nhưng muỗi cắn cũng đủ chết, nước uống không những thiếu mà còn độc địa do đất phù sa gây ra....Ngoài ra còn phải đuổi người Côn-man (tức dân chài lưới sừng sỏ) ra khỏi những nơi trú ẩn khi trời bão tố gây đắm thuyền. Khai phá xong thì trao lại cho dân Việt quản lý (bóc lột giống Việt Cộng: Nhân Dân làm chủ, Chánh Phủ thu hoạch, Đảng quản lý)

Châu Định Viễn (Vĩnh Long) : Định Tường, Châu Đốc và Vĩnh Long
Sau Phủ Gia Định lại khai thêm Châu Định-viễn (tức Vĩnh Long), công việc cũng cực nhọc như vậy là do dân Chiêm làm hết. Khi hoàn thành thì dân Việt lại đến tiếp thu (bóc lột). Đến đây thì sức cùng lực kiệt chú Nguyễn không thể bót lột được nữa..

Trấn Hà-tiên
(Trấn chứ không phải Châu hay Phủ)
Lúc này (1628 sau tây lịch) bên nước Tàu nhà Thanh diệt nhà Minh.
Binh đội Mạc Cửu không chịu đầu hàng nên kéo binh đoàn đến hạ trại ở khu đất Hà Tiên. Lúc đó Hà Tiên là đất vô chủ nên binh đoàn Mạc Cửu yên ổn làm ăn, biến đồng lầy thành khu trù phú.
Sau khi khai hoang, diệt rắn rết, thuồng luồng, ba ba.. và thú rừng thì lập cảng làm nơi buôn bán để thuyền bè qua lại tá túc, trao đổi hàng hóa và du hý bằng các song bạc cùng làu xanh.
Làm ăn đang phát đạt thì bọn lính ở Phnom Pênh qua đánh phá. Bọn Mạc Cửu chống đỡ giỏi. Tuy đánh lui được người Chân Lạp nhưng thuyền bè qua lại thưa dần vì không có an ninh. Do đó kinh tế tụt dốc không thắng.
Để phục hồi lại an bình thì Mạc Cửu đến điều đình với chúa Nguyễn là biếu chúa Nguyễn Trấn Hà Tiên và chịu nộp hoa lợi hàng tháng; với điều kiện quân nhà Nguyễn bảo vệ an ninh để họ còn khai thác các thuơng thuyền. Hai bên đồng thuận nên quân Chân lạp không dám sang cướp phá nữa. Nhưng chính Chúa Nguyễn cũng thiếu người nên phong ngay cho Mạc Cửu làm Tổng Binh cai quản Trấn Hà Tiên
Thường thường thì chữ Trấn dùng để chỉ một vùng có binh đao cần phải ngăn lại. Còn chữ Phủ hay Châu là một vùng đất an bình. Vì vậy nên các chúa đã đặt là: Phủ Gia Định, Châu Định Viễn, nhưng Trấn Hà Tiên chứ không phải Châu Hà Tiên.
w
Tài liệu tham khảo:
P      Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, mục Dư Ðịa Chí của Phan Huy Chú viết xong vào năm Minh Mạng thứ hai (1821). Thời gian viết là 10 năm (1809-1819). Vì thế nên soạn giả chỉ nói đến hết nhà hậu Lê rồi thôi, không được nói đến nhà Tây Sơn kẻ thù bất cộng đái thiên của Triều Nguyễn Gia Long; lẽ dĩ nhiên cũng không được nói đến nhà Trịnh ở phía bắc sông Gianh.
P      Việt Nam Sử Lược Trần Trọng Kim (yếm thế), viết dưới thời nô lệ người Pháp. Có được Thực Dân Pháp chấp nhận thì sách mới được in để phổ biến.
Ðặc điểm: Tài liệu lấy từ Bắc Kinh: Vừa thiếu, vừa sai (theo nhận định của tác giả Trần Trọng Kim trong lời Tựa)...Khi đọc phải thật thận trọng vì tác giả có tư tưởng yếm thế; cái gì của người Việt cũng dở cũng tồi; tất cả đều bắt chước người Tàu! Hơn nữa, tác giả không phải là nhà sử gia, quân sự gia, kinh tế gia hay chánh trị gia nên lời bàn bị giới hạn bởi kiến thức.
P      Ðất nước Việt Nam qua các đời vua của Ðào Duy Anh viết dưới chế độ Việt Cộng nên lời văn phải phù hợp với thời đại nịnh Bắc Kinh của đảng cầm quyền thì mới được in ra thành sách bởi nhà xuất bản Thuận Hóa ở Huế năm 1994; từ trang 223 đến trang 239.
Cước chú: Ấn hành chiếu lệ nên chỉ có 1.000 bản cho dân số 80 triệu người, phổ biến hạn hẹp. Ông Ðào Duy Anh ăn lương để nghiên cứu đề tài do đảng Việt Cộng chọn, do đó Việt Cộng phải cho in để lấy tiếng là trọng dụng hiền tài, chứ sự thực là úm nhân tài. Vì thư viện và cơ quan nhà nước đã trưng mua gấn hết và để ở đáy tủ rồi, còn ít bản lọt lưới ra ngoài nên ít người biết đến cuốn sách này. 
P      Lê Hoa Ngoại Tộc phát hành ở San Diego (Mỹ). Ðây là nội san của con cháu và dòng họ nội ngoại, xa gần với Ðại Vương Lê Lợi; phổ biến trong dòng họ nhà Lê nên ít người biết. Họ muốn phổ biến rộng ra ngoài nhưng thiếu ngân quỹ. In để phổ biến những chuyện chánh trị mà chỉ có Hoàng Tộc mới biết mà thôi như: Tại sao trong khi Hoàng Cung đang giết nhau để tranh ngôi báu mà quần thần lại dám giết vua cùng Thái Hậu rồi đem kiệu ra rước Hoàng Tử Tư Thành (tức vua Lê Thánh Tôn) về làm vua? Nhất là ông này đã bị vua cha khai trừ ra khỏi Hoàng tộc. nếu ông ta khước từ thì sao?
Suy ra là: Nước đang có biến loạn to và người được thỉnh cũng đòi điều kiện để tránh nạn kiêu binh và làm vua bồ nhìn như Trịnh Khải.....Hai bên ưng thuận thì mới có chuyện lên ngôi nhận lãnh trách nhiệm trước toàn dân.
w
Phần 3: Trau dồi kiến thức
Trả lại sự thật cho lịch sử là điều cần phải làm để hóa giải những oan khuất, những oán thù, những bất công thì mới hy vọng có cuộc sống hài hòa giữa các sắc tộc được.
Cuộc sống hài hòa phải bắt nguồn từ cuộc sống: Hoà Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa trong tư thế bình đẳng. Thiết nghĩ đây là một giải pháp tốt cho cuộc sống hạnh phúc của loài người trong thế toàn cầu hóa đang đi tới.
Mọi sự khích-bác, tự-tôn, háo-thắng đều đem khổ hạnh đến cho nhân loại.
Nên nhớ là đẻ nhiều để bần-cùng hóa nhân loại cũng là một vũ khí để tồn tại của kẻ yếu, của kẻ bị cường quyền bức bách.

Ø         Do đó một nền giáo dục nhân bản và nhân vị là điều cần phải làm ngay để tránh thảm họa gây ra tận thế. Nền giáo dục này rất cần một chương trình thuần nhất cho nhân loại và một phương cách giảng dạy hữu hiệu cho từng vùng một.
²

Ngày xưa hầu hết các danh xưng về con người, về đất đai, về thể chế hay về uy quyền đều hàm chứa một ý nghĩa nào đó. Nay chúng ta truy lùng các ý nghĩa đó thì sẽ thấy rõ một phần nào về sự xâm chiếm đất đai và văn hóa của nhau

Nước Chàm hay nước Chiêm Thành là một, nhưng có 2 danh xưng khác nhau.
Danh từ người Chàm, người Chiêm phát xuất từ đâu thì không rõ; nhưng có lẽ danh từ Chiêm là do họ đặt cho chính họ, còn danh từ Chàm là người Việt đặt theo nước da ngăm ngăm nâu của họ chăng? Chữ CHIÊM có nghĩa là ngưỡng-mộ như chiêm-ngưỡng, chiêm-bái; vậy chữ CHIÊM là chuyển nghĩa từ danh từ nước họ sang danh từ nước Việt....Giống như danh từ người TRUNG HOA là chuyển nghĩa của tiếng nước họ sang tiếng Việt.

Danh từ người TRUNG HOA gọi tắt là người HOA, là danh xưng do Lã Hậu tự đặt cho dân dưới triều nhà Tây Hán (183BC) để lấy cớ đi xâm lăng các nước xung quanh toàn là một lũ Rợ (bắc) Quỷ (tây) và Di (nam).
Trung Hoa có nghĩa là trung tâm tinh hoa của vũ trụ, người Pháp chuyển nghĩa thành l'Empire du Milieu, tức cái rốn của vũ trụ theo quan niệm Trời tròn Đất vuông, trời che đất chở.
Đi hết đất thì tới biển, hết biển thì đến chân trời (horizon). Tới chân trời thì leo lên bàu trời (le ciel) ở đó có Thiên Đình, có Nam Tào, có Bắc Đẩu, có ông Thiên Lôi (foudre) có bà La Sát như triều đình ở trần gian vậy. Tối thì ông trời đi ngủ, ngày thì ông dạy và chỉ thò mỗi cái mặt ra để quan sát hành động của từng ngưới dưới thế gian nên ta gọi Mặt Trời (mặt của ông trời, tức là Thượng Hoàng Ngọc Đế nhận sớ Táo Công mỗi năm một lần....Phong tục này phát xuất từ đâu thì chưa biết, nhưng tập tục này còn tồn tại cho tới ngày hôm nay;
Đời sống của loài người thì gọi là Trần Gian; còn đời sống cho vong linh thì gọi là Âm Phủ.
²
Danh từ Trung Hoa có từ năm 183BC; ngay sau khi Lưu Bang băng hà. Lưu Bang tức Hán Cao Tổ...đúng ra thì miếu hiệu phải là LƯU Thái Tổ mới đúng. Sự thay tên đổi họ này nhằm phục vụ cho nhu cầu chánh trị của ông ta, chúng ta không bàn ở đây vì lạc đề.
§    Phía bắc có Mông Cổ (rợ Hồ) và Mãn Thanh (rợ Kim).
§    Phía tây có Ngô Duy Nhĩ (du-mục), tức Tân Cương (biên giới mới) và Tây Tạng (khúc ruột của Bắc Kinh ở phía tây.
§    Phía nam có sắc dân nông nghiệp thuộc tộc MIÊU, nhưng họ đọc thành Man và mình chuyển âm thành Mán nên nó gọi luôn là Man Di, người MIÊU ở phía nam không có văn hóa, sống như loài thú nên người Trung Hoa cần phải khai hóa cho họ (đọc sử Tàu viết về người Việt thì rõ.
Vì người Việt không đọc được chữ Tàu nên cụ Trần Trọng Kim (Việt Nam Sử Lược) phải phiên dịch sang chữ Quốc Ngữ cho con dân đất Việt học để biết nguồn gốc u tối của tổ tiên mình mà cùng nhau bái phục lòng nhân hậu của người Tàu đã đánh chiếm Hoàng Sa của ta (19/01/1974) mà bọn Việt Cộng lại lên tiếng bênh vực là: Yêu thì cho roi cho vọt, ghét thì cho ngọt cho bùi....
Tức Việt Cộng là con của Tàu Cộng, nên chúng mới cần Quan Thày Trung Hoa cho nhiều bài học hơn nữa thì mới sáng mắt ra được.
Ø  Sự kiện lịch sử chỉ có một, khi đã xảy ra rồi thì không ai có thể thay đổi được sự thật.
²

Năm 183BC Lưu bang chết, Lã Hậu cướp quyền nhốt con vào tù rồi sai quần thần chống đối đem quân đi đánh Hồ Nam của Triệu Việt Vương (tức Triệu Đà). Triệu Việt Vương thua bỏ chạy. Năm sau 182BC Triệu Đà huy động quân ở Châu Khâm (quảng Tây thuộc sắc dân Âu Việt) và châu Liêm (quảng Đông thuộc sắc dân Lạc Việt) lấy lại Hồ Nam. Sau đó Triệu Việt Vương cho nó cái tên là Tàu; có nghĩa là "ngố" và vợ thằng ngố là con lòa tức mụ "xẩm".
Năm 181BC Lã Hậu đem quân phục thù nhưng đại bại.
Năm 180BC: Sau khi đại thắng ở Hồ Nam, Triệu Việt Vuơng thay chức hiệu thành TRIỆU VŨ ĐẾ, tăng cường binh bị để đánh trừng phạt, bắt Lã Hậu làm tội. Do đó triều thần nhà Hán bày mưu giết Lã Hậu và tôn Thái Tử lên ngôi Hán Thái Tông.
Ngay sau khi đăng quang Hoàng Đế, ông này dâng biểu xin lỗi Triệu Đà, xin bãi binh và xin giao thương trở lại như thời Hán Cao Tổ. Vì lòng nhân đức không muốn 2 dân chịu cảnh binh đao vì hận thù nên Triệu Vũ Đế đồng ý hiếu hòa.
Triệu Đà là người Việt gốc Ngô ở vùng Ngô Việt, nay là vùng Chiết Giang ở phía nam sông Dương Tử. Nước Ngô bị Lãnh Vương vùng Lạc Việt (tức Quảng Đông) sát nhập vào nước Văn Lang vào khoảng 6000BC. Triệu Đà sinh năm 258BC, chết năm 137BC, thọ 121 tuổi.
²
Đọc sử do Việt do kẻ thống trị (Tây, Tàu, Gia-long và Việt-cộng) thì ta thấy dân Việt vừa hèn vừa ác.
§    Hèn là vì không có tinh thần cầu tiến, chỉ biết bắt chước văn minh và văn hóa của kẻ thù; không có óc sáng tạo, không có tư duy độc lập.
§    Còn ác là háo sát, chém giết sắc dân yếu hơn mình...
Do đó  có tinh thần vọng ngoại và tự kiêu nên sinh ra để làm nô lệ cho người. chứng cớ không thể chối cãi được là:
1. Việt Cộng dạy thanh niên tinh thần nô dịch đi theo học thuyết của những xác chết ở thời đại đồ đồng như Khổng Tử; ở thời đại cơ khí, cá lớn nuốt cá bé đẻ rồi ra một loại học thuyết sát nhân như: Karl Marx, Lénine, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh..chúng toàn là những tên lưu manh chánh trị.

2. Còn những khí phách hiên ngang, tư duy độc lập của tổ tiên để lại thì chúng cho vào sọt rát. 

Xét cho cùng thì nền giáo dục ngu dân chỉ có trong thời nô lệ; dân có ngu thì con buôn chánh trị mới bóc lột được.
Muốn thoát ra phải phục hồi nền giáo dục Việt Tộc của tổ tiên để lại với khí phách Rồng Tiên văn hóa Lạc Hồng.
Với tư tưởng nô dịch này nên thề hệ chúng ta, vì không đủ tài liệu để suy xét nên mới khăng khăng nói là dân Việt tiêu diệt dân Chàm và chiếm đất Phù Nam của dân Chân Lạp (tức KHMER). Dù muốn dù không thì chúng ta có bổn phận phải trả lại sự thật cho lịch sử thì mới giải quyết được vấn đề sắc tộc trên đất nước Việt sau khi Việt Cộng ra đi. Chúng ta phải giải quyết vấn đề sắc tộc trên mảnh đất Việt ra sao để có đời sống hài hòa giữa các sắc tộc; đó là nhu cầu khẩn thiết để kết hợp dân tộc mà tổ tiên chúng ta đã làm được như: Thời Việt Vương Câu Tiễn sát nhập nước Ngô vào nước Văn Lang (600BC), như thời Triệu Việt Vương (Triệu Đà người Việt gốc Ngô đã lãnh đạo toàn dân Việt trên 70 năm ăn bình (207BC-137BC), như thời  Vua Lê Thánh Tông (1471) đã sát nhập nước Chàm vào nước Đại Việt một cách hài hòa.

Các vị tiền bối đó đã áp dụng chánh sách gì mà có an bình trong lòng người đủ mọi sắc tộc? Nay chúng ta học hỏi được gì để: Việc Nhân Nghĩa cốt ở yên dân (bình Ngô Đại Cáo)?
Vì thế nên bài học lịch sử này đã được soạn thảo trong mục tiêu giải quyết vấn đề sắc tộc trên đất nước Việt Nam ngày hôm nay.
1.      Vấn đề chính là làm sao để có Hòa Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa.
2.      Làm được 2 chuyện này thì vững như bàn thạch...cái này thuộc lãnh vực giáo dục.
²
Khi Việt Cộng ra đi thì chúng ta có rất nhiều vấn đề phức tạp và nhức nhối cần phải giải quyết ngay như vụ đất đai, vấn đề sắc tộc, vấn đề giáo dục, vấn đề kinh tế, vấn đề ngoại giao, vấn đề đầu tư, vấn đề khai thác tài nguyên thiên nhiên cùng vô số tệ nạn khác thì mới hy vọng có thể vươn lên được; bằng không thì sẽ tiêu vong.
§    Ở đây chúng tôi khoanh vùng, vì sức người có hạn. Chúng ta chỉ học hỏi người xưa về vấn đề Hòa Đồng Sắc Tộc và Hội Nhập Văn Hóa mà người xưa đã từng áp dụng thành công thì mới tạo được an bình ở thời điểm đó.
Muốn nắm vững vấn đề thì chúng ta phải đi lại từ nguyên thủy, lướt qua những thời điểm mà nước Chàm chưa lập quốc.....Sau đó phải phân tích rõ ràng:
1.      Lịch sử nước Chàm từ ngày thành lập là năm 40 sau tây lịch cho tới ngày sát nhập vào Đại Việt vào năm 1471 sau tây lịch.
2.      Lịch sử nam tiến để khai phá vùng đất bồi ở phương nam vào lúc nào? và bằng cách nào? Tức mảnh đất Phù Nam hay thềm lục địa nước Chàm ở phía đông, và thềm lục địa của nước Chân Lạp (tức khmer) ở phía tây mà sau này gọi là đồng bằng sông Cửu Long, lúc đó có người Côn-man. Ở thời điểm này thì chưa có danh từ Thềm Lục Địa, và cũng chẳng có luật Hải Phận như ngày hôm nay.
3.      Côn-man (hay Bồn-man) là người nước nào? Ai đặt tên cho họ? Chữ Man là người thất học (mọi). Còn Cồn hay Bồn nghĩa là gì?
4.      Cứ theo nghĩa của chữ mà đoán thì Bồn là khu đất cao hơn mặt biển một tý, đảo là chỏm núi vượt khỏi mặt biển. Còn Côn là cây gậy dùng để đánh nhau. Man là mọi. Vậy thì:
§      Côn-man là dân anh chị đầu trộm đuôi cướp, tức bọn cướp biển (hải tặc).
§      Bồn-man là dân thất học, bọn chài lưới tá túc ở bãi hoang trong biển cả.
§     Phù là đất bồi, Phù Nam là đất bồi ở phương nam, tức đồng bằng sông Cử Long ngày hôm nay. Lúc đó là rừng Đước, rừng Chàm, rừng Sú, rừng Cói, rừng Sậy..... là loại cây mọc dưới nước để giữ đất bồi...... đầy rắn rết và thú dữ không ai dám ở cả.
w

Lịch sử vũ trụ
Vũ trụ mà chúng ta đang sống gồm khoảng 100 tỷ ngôi sao nằm trong cái đĩa bay, ở giữa ùng ra một cục. Tất cả đều di động cùng một chiều, từ phải qua trái nếu đầu đứng theo cực bắc của trục quay; và từ trái qua phải nếu đầu lộn ngược xuống cực nam của trục quay. Tuổi đời là 17 tỷ năm, có nơi nói là khoảng 20 tỷ năm đến 30 tỷ năm họ dựa vào sự dãn nở nhanh hay chậm để ước đoán tuổi đời của vũ trụ;
Mặt trời do một vụ nổ của vũ trụ sinh ra khoảng 7,5 tỷ năm. Người ta dựa vào sức nóng mà suy ra tuổi của mặt trời. Sức nóng hiện nay là màu vàng vì có carbone (than) bị nung nóng nên không còn đủ sức để phát nổ lớn sinh ra hành tinh khác.
Trái đất do mặt trời phái nổ ra vào khoảng 4,6 tỷ năm. Các hành tinh thuộc Thái Dương hệ phát nổ cùng một lúc. Sau đó ít nóng nên trái đất chỉ phát nổ có 1 lần sinh ra mặt trăng.
Trái đất nguội và sinh ra vỏ cứng dày khoảng 981Km, dưới đó là lớp cùi nhão rồi đến ruột và lõi. Kim Cương, Vàng Bạc nằm ỡ lõi trái đất rất nhiều.Đó là tóm lược sự hiểu biết về vũ trụ theo khả năng của khoa học ngày hôm nay.

Lịch sử loài người
Loài người có mặt trên trái đất vào khoảng 2 triệu năm nay. Trước đó thì bàu không khí chưa có Dưỡng Khí (Oxygène) nên các vi khuẩn chết đi đều biết thành đá cả. Sở dĩ sinh vật sau khi chết thì thịt bị rữa ra là do sự tác dụng của nước và dưỡng khí nên thịt bị biến chất dưới sức nóng của môi trường.
Lúc đầu ở Phi Châu, phía nam nước SOMALIE ngày hôm nay. Vì da không có lông ấm nên không thể sống ở xứ lạnh được (chết vì xưng phổi). Về sau kiếm được lửa ở thời đá ghè, tức thời kỳ lấy 2 hòn đá đập vào nhau cho vừa lòng bàn tay thì đá tóe lửa bốc cháy vào đám lá khô. Từ khi biết cách lấy lửa đến khi biết dùng lửa phải trải qua hàng chục ngàn năm (ngày xưa gọi là hàng vạn năm) thì mới tung đi khắp thế giới để kiếm ăn.
Có rất nhiều nhóm, nhưng chỉ có 2 nhóm chính còn để di vật ngày hôm nay là:
  1. Nhóm thứ nhất tiến lên phía bắc tới IRAN và trụ ở đó thành dân Du-mục sau này.
  2. Nhóm thứ nhì tiến sang phía đông theo bờ biển để kiếm hải sản ăn sống nuốt tươi, sau này thành sắc dân nông nghiệp (Ngô, Sở, Việt, Chàm và Chân Lạp).
  3. nhóm thứ ba thì trụ tại Phi Châu sống quanh quẩn ở nơi chôn nhau cắt rốn, tức lục địa Phi Châu ngày hôm nay.
Biến dạng: Con người thay đổi hình dạng là di môi trường sinh sống làm thay đổi Chromose (nhiễm sắc thể). Điển hình là vụ nổ lò điện Nguyên Tử ở Chernobyl (Nga) và Fukushima (Nhật), trái cây và sinh vật bị biến dạng ngay ở thế hệ sau.
Biến tính: Con người thay đổi tâm tính là do sự mưu sinh tạo ra. Dễ sống thì trở nên nhân hậu, giúp đỡ người khác. Khó sống thì đâm chém nhau để giành giật miếng ăn; do đó nếp sống (Văn Hóa) của mỗi vùng mỗi khác. Vì không biết sự di hành để kiếm ăn nên thế hệ cha ông mới nói rằng mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng biệt của mình. Điều này đúng với quan niệm chủng tộc ớ thời đại cơ khí, nhưng sai với thời đại điện toán đưa đến thế toàn cầu hóa ngày hôm nay.....không còn phân chia chủng tộc mà chỉ còn con người mà thôi: Ai cũng có trí óc thông minh như nhau.
Chẳng qua chỉ vì ở bàu thì tròn, ở ống thì dài. Con người do môi trường sinh sống làm thay đổi tâm tính và tư duy nên ở nước này thì thành người tốt, ở nước khác thì thành người xấu. Nhưng khi đả biết biến thái của mọi việc thì chính con người sẽ làm thay đổi môi trường sinh sống để tạo ra cuộc sống hài hòa giữa con người với nhau. Cái này thuộc về chương trình giáo dục để đào tạo người tốt cho xã hội: Biết sống cho mình và sống cho người.
Ø    Trên đây chỉ là một vài ý niệm căn bản để giải quyết vấn nạn sắc tộc trên mảnh đất Việt Nam ngày hôm nay; sau khi Việt Cộng tàn phá con người và đất nước đã ra đi.
w

Đại Hồng Thủy
Vào khoảng 18.000BC, lúc đó khí quyển (tức là bàu không khí) lạnh. Lúc này con người đã có khả năng đi lang thang khắp địa cầu để kiếm ăn, no đói theo thời tiết của vùng sinh sống.
Họ chưa biết nói vì chưa có nhu cầu diễn tả tư tưởng nên bộ máy phát âm chưa nảy nở. Các sinh vật khác không biết nói là vì chúng không có nhu cầu truyền đạt tư tưởng. Nếu có thì âm trường của chúng sẽ khác với âm trường của loài người.
Âm trường là tần số của tiếng nói; đối với loài người thì âm trường nằm trong khoảng 720Hz tới 930 Hz. Hz là HERTZ, nghĩa là số chấn động trong một giây mà ta gọi là tần số; ngoài khoảng đó thì tai con người không nhận được, và lẽ dĩ nhiên là bộ máy phát âm mà ta gọi âm quản cũng không phát ra được. Các giác quan khác cũng vậy, chỉ nhận được tín hiệu trong một khoảng nào đó thôi.
Loài người bắt đầu biết nói từ khi biết sống quần cư, tương trợ lẫn nhau. Tức là bắt đầu từ 13.000BC là lúc biết tự tạo ra thực phẩm. Do cuộc sống mỗi ngày mỗi đông dân cư nên tiếng nói mỗi ngày mỗi phong phú. Từ đó mới phát minh ra chữ viết vào khoảng thời đại đồ sắt non, khoảng 6000BC. Lúc này mới có cưa để cưa tre, có dao để chẻ lạt tre và kết thành mành-mành để viết trên đó; đi đâu thì cuốn lại rồi sách đi nên gọi là cuốn sách.
Vào khoảng 18.000BC thì có 2 khu dân cư còn để lại di chỉ cho ngày hôm nay là:
1.      Dân cư ở IRAN về sau sống bằng nghề Du-mục với nền văn hóa du-cư; tổ tiên của người Tàu. Theo phụ hệ, lấy uy quyền và sức mạnh làm trọng. Sống theo luật rừng: Lý kẻ khỏe bao giờ cũng cứng, hay theo luật biển: Cá lớn nuốt cá bé.
Ø   Kẻ thù của họ là con người nên háo chiến, háo sát và háo thắng. Vì thế nên tư duy của họ là tôn kẻ Sỷ làm Thày và vùi dập võ biền vai u thịt bắp:
Quan văn thất phẩm đã cao, quan võ ngũ phẩm còn mang gươm hầu.
(ngày xưa có 9 cấp: từ Cửu Phẩm lên Nhất Phẩm. Mỗi Phẩm có 2 trật là Chánh và Phó)
2.      Dân cư sống theo ven biển Đông; về sau sống bằng nghề Nông với nền văn hóa nông nghiệp với tư duy nhân hậu: Nhân Bản và Bình Đẳng, theo mẫu hệ.
Ø   Kẻ thù của họ là thiên nhiên nên bắt buộc phải có tinh thần tương trợ. Mất mùa thì chết cả đám. Do đó mới có câu:
Nhất sỹ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sỹ.
Các khu khác thì không thấy dấu tích như khu chăn nuôi ở Cap Nord bên NORVEGE (Na-Uy) sinh hoạt nhộn nhịp vào thời điểm 5.000BC (coi hình ở dưới).
Còn khu dân cư Phi Châu thì vẫn hầu như không phát tirển gì nhiều. Có lẽ chỉ vì họ không muốn tha hương cầu thực, an phận với những gì đang có chăng?
w
Vào khoảng 13.000BC thì:
·      Dân cư sống ven biển Đông đã biết cách trồng ngũ cốc, lấy lúa nước làm thực phẩm chính. Họ đã biết tính lịch để cầy cấy theo thời tiết. Đó là Miêu Lịch, Miêu có nghĩa là Mễ (tức ngũ cốc) để chỉ sắc dân sống về nghề nông có cuộc sống quần cư và ổn cư.
·      Dân cư sống ở Trung Đông mà IRAN là trọng tâm, đã biết cách nuôi thú rừng thành gia súc, lấy nghề săn làm chánh. Họ đã biết tính lịch theo tuần trăng (âm lịch) để đi săn thú ban đêm. Về sau họ biến thành sắc dân Du-mục, có cuộc sống quần cư nhưng du cư. Ngày hôm nay người ta gọi là dân NOMADE có cuộc sống lang thang. Dân này di theo cánh đồng cỏ (steppe), bên Á Châu không có. Steppe là đồi chỉ có cỏ mọc được thôi.
·      Nước ngọt chỉ chiếm có 6% lượng nước trên trái đất, còn lại 94% là nước mặn không dùng được.
Vào lúc này (13.00BC) thì nước biển thấp hơn ngày hôm nay là 130,5 thước tây.
·      Từ Việt Nam đến Phi Luật Tân và Nam Dương Quần Đảo (tức Mã-lai ngày hôm nay) là đất liền, đồng bằng sông Hồng chưa có mà đồng bằng sông Cửu Long cũng không.
·      Từ bờ biển Đông (Phi Luật Tân) đến Trung Đông là băng tuyết không có sự sống.
w
Sau đó không biết vì lý do gì mà bàu không khí nóng lên, băng đá tan, mực nước biển Đông dâng cao mỗi năm trung bình là 2cm cho tới 6.000BC (tức cách đây 8.000 năm) thì cao hơn mặt nước ngày hôm nay là 10,3m. Lục địa Trung Hoa bị chìm dướì nước, không có Thần Nông, Đế Nghiêu hay Đế Thuấn chi cả. Dân cư còn thưa thớt, đất thì hoang vắng thì làm gì có xã hội loài người....và chưa có nhu cầu tổ chức xã hội.
Bắc Việt thì nước biển dâng đến chân núi Ba Vì; Việt Trì lúc đó là bãi biển. Do đó nảy sinh ra chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh đánh nhau gây lụt lội, thông điệp người xưa ký thác trong chuyện này là gì thì xin được giải thích sau.
Trung Việt thì nước dâng đến chân núi Trường Sơn. Lúc đó Tibet (Tây Tạng) ở gần biển.
Ở Nam Việt thì đồng bằng sông Cửu Long chưa có, nước biển tiến tới Bình Thuận (Phan Thiết) và biển hồ Tonlé Sap ở nước Khmer ngày hôm nay.
thời điểm 6.000BC thì trên cả thế giới chưa có ai lập quốc cả: Lý do là chưa cần xâm lăng hay tự vệ vì cả nhân loại chưa tới 2 triệu người; đất thì hoang vắng, dân cư thì thưa thớt.

Di tích này thì chúng ta có thể thấy trên vách núi ở khắp các nơi, không có gì khó khăn cả; và cũng chẳng cần thông thái mới nhận ra được.
Về niên đại thì dùng Carbone16 đo tuổi của rêu bám trên vách núi; đây là khả năng chuyện môn thuộc về các viện Đại Học trong các nước tân tiến.
Chúng ta vẫn được Thày Sử Địa giảng từ lúc còn ở trung học là thế giới bị nạn Đại Hồng Thủy tàn phá. Nước biển Đông đột ngột dâng cao rồi lại rút xuống. Kể từ 138.000 BC cho tới 6.000BC, nước biển Đông dâng lên rồi rút xuống cả thảy là 4 lần. Như vậy là nhiệt độ của bàu khí quyển thay đổi, nước lúc thì đóng băng, khi thì tan bớt. Vì lý do gì thì chưa biết, chỉ biết rằng ở kỷ nguyên Cơ Khí và Điện Toán thì loài người đang hâm nóng bàu khí quyển bằng cách dùng Pétrole và Uranium vô tội vạ và vô trách nhiệm, không những hâm nóng bàu khí quyển mà còn thải những chất độc địa vào bàu khí quyển nó ảnh hưởng tới nguồn nước tươi mát mỗi ngày mỗi ít đi. Đó là hậu quả của Văn Minh Vật Chất, nếu không chặn kịp thì sẽ nhân loại sẽ bị tiêu vong. Các tổ chức bảo vệ thiên nhiên đã và đang nhắc nhở chúng ta về hiểm họa thiếu nước và dưỡng khí. Nguồn nước ngọt chỉ có 6% lượng nước trên quả đất


Hình vẽ trên đá: Tả cảnh trại nuôi gia súc với hàng rào
(5.000BC ở Cap Nord Norvège) chụp ngày 23/06/2011; 15giờ21
w

Phần 4 : Trắc Nghiệm
1)      Ngày và nguyên nhân thúc đẩy thành lập nước Văn Lang?
2)      Văn Lang là một liên bang gồm bao nhiêu tiểu bang?
3)      Thể chế và cương vực nước Văn Lang vào thi điểm lập quốc?
4)      Thể chế dưới thời Triệu Đà?
5)      Nói rõ nguyên nhân sát nhập ngước Ngô vào nước Việt?
6)      Tại sao có binh dao triền miên giữa Ngô và Việt?
7)      Tại sao sự sát nhập nước Ngô vào nước Việt lại được 2 dân tộc đồng ý?
8)      Tại sao người Chiêm lại không chịu vào Liên Bang Việt?
9)      Nói rõ lý do và thời điểm lập quốc của dân Chiêm?
10)  Giải nghĩa cho rõ 3 danh hiệu sau đây: Chiêm, Chàm và Hời?
11)  Nước Chiêm với nước Chiêm Thành khác nhau như thế nào?
12)  Tại sao người Chân Lạp lại lập quốc? Lúc đó dân số là bao nhiêu?
13)  Người Bồn-nam và Côn-man là người như thế nào?
14)  Nước Chiếm tấn đánh nước Việt cả thảy là bao nhiêu lần?
15)  Tại sao nước Việt lại sợ nước Chiêm
16)  Lý do nào đã đưa hoàng tử Tư Thành đã bị khai trừ ra khỏi Hoàng Tộc lên làm vua?
17)  Tại sao người Việt lại sát nhập nước Chiêm vào nước Việt, và vào năm nào?
18)  Triều đình đã áp dụng chánh sách gì dể xóa bỏ hận thù giữa Chiêm và Việt?
19)  Ai phong chức Chúa cho nhà Nguyễn?
20)  Tại sao chúa Nguyễn lại coi dân Chàm như dân nô lệ?
21)  Chúa Nguyễn có đại diện cho đại đa số dân Việt hay không? Tại sao?
22)  Phù sa là đất gì và của nước Chiêm hay Chân Lạp?
23)  Tại sao chúa Nguyễn Hiếu Minh lại bách hại dân Chiêm?
24)  Ai xây dựng Trấn Hà Tiên? Và tại sao lại thuộc về chúa Nguyễn Hiếu Minh?
25)  Dân nào đã khai khẩn đất Phù Nam? Chiêm, Việt hay Chân Lạp?

26)  Việt Cộng gây ra hiềm khích sắc tộc để thủ lợi, vậy nay ta phải làm gì để có cuộc sống Hài Hòa Sắc Tộc sau khi Việt Cộng ra đi?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét